PHẦN i PHẦN II: La Thành:Sự chủ động ly khai Đảng của họ chắc chắn gây được tiếng vang. Không những thế, tôi còn tin rằng đó là nước đi tất yếu để họ tự bảo vệ các giá trị đã có của mình trong ván cờ với Đảng và với chính cuộc đời họ. Họ ít nhiều đã và đang xua đi màn sương khói huyền hoặc lâu nay bao quanh các đài hương bệ tượng uy nghi của Đảng, đã và đang góp phần làm xói lở nỗi sợ hãi mà Đảng đã ám thị dân chúng trong ba phần tư thế kỷ cai trị độc đoán của nó. Việc những người như nhà văn Nguyên Ngọc và nhà khoa học Chu Hảo vào Đảng, phục vụ Đảng và đóng góp cho uy quyền của Đảng trong quá khứ là một đáng tiếc. Tuy nhiên, bằng quyết định ly khai Đảng, họ đã chạm tay trở lại vào lương tri và tự do tư duy như những phạm trù đạo đức. Trong lịch sử tồn tại của mình, Đảng đã phạm không ít sai lầm. Quyết định kỷ luật Giáo sư Chu Hảo vừa qua từ Ủy ban Kiểm tra của Đảng là một trong những động thái minh chứng cho sự xơ cứng và u mê già nua của nó.
Một lễ kết nạp đảng- Nguồn: VIETINBANK.VN
Phạm Thị Hoài:Nhưng Đảng vẫn đang được tiếp máu từ các thế hệ trẻ và bất chấp mọi tổn thất, dường như vẫn chưa phải lo thiếu đảng viên?
La Thành: Từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội XII (2016), số đảng viên của ĐCSVN đã tăng từ 1,9 triệu lên 4,5 triệu. Trong vòng ba thập niên đó, dân số Việt Nam tăng từ 60 triệu lên 95 triệu, có nghĩa là tỷ lệ đảng viên trong dân cư đã tăng từ 3,1% lên 4,7%. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với sự gia tăng về uy tín chính trị của Đảng, mà chủ yếu xuất phát từ những lý do hình thức, chỉ đơn thuần phản ánh sự phình to của bộ máy quản lý ở tất cả các cấp của hệ thống chính trị. Dĩ nhiên, nó cũng phản ánh sự gia tăng nhu cầu vào Đảng, khi tấm thẻ đảng đảm bảo cho cơ hội thăng tiến trong hệ thống chính trị đó.
Phạm Thị Hoài:Nhu cầu muốn vào Đảng hay áp lực phải vào Đảng?
La Thành: Không có quy định thành văn rằng cán bộ từ cấp nào trở lên thì bắt buộc phải là đảng viên, song chế độ toàn trị và độc tài ý thức hệ do Đảng áp đặt và vận hành hơn nửa thế kỷ qua ở Việt Nam đã khiến công tác tổ chức của nó ngày càng thấm đẫm chủ nghĩa hình thức. Việc phân loại, tuyển chọn và đề bạt nhân sự của Đảng lâu nay đã trở nên máy móc, trọng hình thức hơn nội dung. Không phải các phẩm chất nhân văn, năng lực tư duy và kỹ năng hành động mà các loại “mác mỏ” như bằng cấp, học vị, danh hiệu hay tấm thẻ đảng trở thành mục tiêu tranh thủ giành giật của tất cả những người tìm kiếm cơ hội. Cách đây vài chục năm tôi còn thấy một cán bộ khoa học giữ vị trí lãnh đạo cao cấp mà không phải là đảng viên: Giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia – một cơ quan trực thuộc chính phủ ngang cấp bộ – kiêm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, những chức vụ tương đương thứ trưởng và vụ trưởng. Bây giờ khó tìm được trưởng, phó một đơn vị cấp ba (cấp một là các bộ ngành của chính phủ, các ban ngành của Trung ương Đảng, các ủy ban nhân dân hoặc ban chấp hàng đảng bộ tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương) mà không phải là đảng viên. Sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang, tức từ quân hàm thượng tá trở lên, thì gần như bắt buộc phải là đảng viên trước khi được đề bạt.
Phạm Thị Hoài:Tôi nghe nói, vào Đảng bây giờ có khi cũng phải “chạy”, phải vào bằng cửa sau?
La Thành: Trên mọi nấc thang quyền lực, từ địa vị cán bộ hành chính hoặc đảng vụ cấp xã phường đến những vị trí lãnh đạo béo bở ở các công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước hay những chiếc ghế đầy uy quyền ở Ban Chấp hành Trung ương hoặc chính phủ, Đảng đang điều hành mọi công việc, trong đó có công tác phát triển Đảng, theo chủ nghĩa thân tín. Nhân sự có nhu cầu vào Đảng phải tiếp cận và chứng minh sự trung thành của mình với nhân sự lãnh đạo bằng mọi cách khả dĩ, từ những xách quà hay tấm phong bì tiền mặt thô thiển đến những thủ đoạn ủng hộ tinh vi hoặc kín đáo hơn như trợ giúp lãnh đạo kiếm chác lợi ích kinh tế/chính trị, tự nguyện trở thành các tiện ích sinh hoạt cho lãnh đạo như đối tác chơi thể thao, kẻ dẫn bạn tình hoặc làm luôn đối tác tình dục của lãnh đạo. Sự hé mở gần đây của truyền thông về những bộ máy quan chức ở địa phương gồm toàn thân tộc, hay về những hot girltrở thành cốt cán sau một đêm chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh toàn cảnh nhem nhuốc tởm lợm của hệ thống này.
Khai giảng lớp đào tạo cái gọi là “cán bộn nguồn”- Nguồn báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Phạm Thị Hoài:So với thế hệ của bạn và thế hệ trước, đảng viên trẻ hiện nay thế nào?
La Thành: Có thể tạm chia họ thành hai nhóm. Nhóm thực dụng gồm những người vào Đảng cho có đủ “mác mỏ” để tiến thân. Họ ít nhiều có cảm xúc trước một số bất cập nghiêm trọng của chế độ hiện tại, song thường tránh tham gia các tranh luận về chủ đề chính trị, hoặc tham gia ở mức độ an toàn. Đây có lẽ là nhóm đông đảo nhất, mắc hội chứngdoublethink khá nặng. Nhóm “hồng vệ binh” tập hợp những người thành kính và quyết liệt bảo vệ các biểu tượng giá trị của Đảng như Hồ Chí Minh, ý thức hệ Mác Lê, cuộc “kháng chiến chống Pháp” và chiến thắng Điện Biên Phủ, cuộc “kháng chiến chống Mỹ” và chiến thắng 30 tháng Tư năm 1975, cùng những “sáng tạo tài tình” của Đảng như Đổi Mới, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, vân vân. Nhóm này nói chung có sức khỏe tâm thần hạn chế, hầu hết mắc chứng tự kỷ ở mức độ khác nhau.
Phạm Thị Hoài:Và tất cả đều tham dự “sinh hoạt đảng”. Cụ thể đó là cái gì?
La Thành: Theo điều lệ ĐCSVN, đảng viên được tổ chức thành các phân bộ, gọi là đảng bộ, tương ứng với các đơn vị địa lý hành chính hoặc các đơn vị kinh tế-xã hội. Theo thông lệ hiện nay, ở cấp chi bộ sinh hoạt đảng định kỳ diễn ra mỗi tháng một lần. Nội dung là kiểm điểm công việc và hoạt động trong tháng, thường là công việc chuyên môn và hoạt động phong trào, nhắc lại hoặc định hướng kế hoạch công việc và hoạt động tháng tới. Ngoài ra có thể phổ biến nghị quyết của đảng ủy cấp trên hoặc nghị quyết của hội nghị Trung ương gần nhất, thường dưới hình thức đọc tài liệu in sẵn và yêu cầu đảng viên viết bản thu hoạch cá nhân sau khi đọc các văn kiện đó. Buổi sinh hoạt thường kết thúc bằng việc nghe đọc và biểu quyết thông qua một nghị quyết do một người trong ban chấp hành, thường là bí thư chi bộ / đảng bộ, chuẩn bị trước và được các đảng viên góp ý bổ sung trong buổi sinh hoạt. Diễn biến của mọi buổi sinh hoạt Đảng đều được ghi biên bản. Sổ sách ghi chép nghị quyết, biên bản họp, mẫu kiểm điểm cá nhân hiện nay đều được thiết kế, in ấn và phân phát đến từng chi bộ hoặc đảng viên.
Cuối tháng Sáu có họp sơ kết giữa năm và cuối tháng Mười Hai họp tổng kết cả năm. Trong các buổi sinh hoạt đặc biệt này, mỗi đảng viên phải viết bản tự kiểm điểm cá nhân, đọc trước toàn chi bộ rồi nghe các đảng viên khác nhận xét. Cuối buổi sinh hoạt tổng kết năm là tiết mục bình bầu các danh hiệu thi đua để cấp trên khen thưởng.
Phạm Thị Hoài:Thế đảng viên trau dồi chủ nghĩa Mác-Lê vào lúc nào?
La Thành: Các chuyên gia của Đảng lâu nay đã cho ra đời ba bộ giáo trình sơ cấp, trung cấp và cao cấp cho các môn Triết học Mác-Lênin, Kinh tế Chính trị Mác-Lênin và Chủ nghĩa Cộng sản Khoa học. Chương trình sơ cấp dành cho các trường cao đẳng và đại học không thuộc lực lượng vũ trang hoặc Trung ương Đảng, chiếm 15% thời lượng đào tạo mỗi khóa học, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cán bộ nguồn cho vị trí trưởng/phó các đơn vị cấp ba và cấp hai bắt buộc phải có chứng chỉ đã qua chương trình trung cấp ở các khóa học tại các trường đảng cấp tỉnh/thành, trong khi học viên sĩ quan các trường đại học của quân đội và công an được thụ huấn chương trình này ngay trong quá trình đào tạo. Cán bộ nguồn cho vị trí lãnh đạo cao cấp (trưởng/phó các cơ quan từ cấp một đến cấp trung ương), tướng lĩnh chỉ huy hoặc chính ủy các đơn vị cấp chiến dịch-chiến lược của lực lượng vũ trang phải có chứng chỉ đã qua chương trình cao cấp ở một khóa học tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh hoặc Học viện Quốc phòng.
Phạm Thị Hoài:Ảnh hưởng của Đảng ở thành phố và nông thôn có khác nhau nhiều không?
La Thành: Ở nông thôn, người dân nói chung đồng nhất Đảng với chính quyền về quan niệm. Điều này không có nghĩa ảnh hưởng của Đảng ở nông thôn là tích cực. Tệ nạn gia đình trị và tham nhũng, đặc biệt là tham nhũng đất đai và tham nhũng chính sách, của các đảng bộ và chính quyền địa phương trong nhiều năm qua đã gây nhiều bất bình và phản kháng trong dân chúng, điển hình là các sự kiện như Đoàn Văn Vươn 2012, Formosa 2016, Đồng Tâm-Mỹ Đức 2017, Bình Thuận 2018. Còn ở thành phố, ảnh hưởng của Đảng đa dạng hơn. Trong các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước, đảng tịch và sinh hoạt Đảng vẫn còn là những yếu tố điều kiện ảnh hưởng đến cơm áo và thăng tiến của một bộ phận cán bộ nhân viên, song cũng chỉ dừng ở các ảnh hưởng kinh tế. Dân đô thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, khinh nhờn Đảng hơn, song ý thức phản kháng lại yếu hơn so với dân nông thôn. Uy quyền chính trị của Đảng ở thành phố giống như các zombie, những thây ma hôi thối vẫn tiếp tục áp đặt luật chơi của nó lên cuộc sống hiện tại.
Phạm Thị Hoài:Trên những kênh phi chính thống như mạng xã hội, vỉa hè, công khai phê phán, giễu cợt và chửi Đảng hoặc các lãnh đạo Đảng dường như đã trở thành một môn thể thao toàn dân, thậm chí với sự tham gia của cả các đảng viên. Như vậy, có thể coi là xã hội Việt Nam đã cởi mở hơn nhiều so với vài thập niên trước không?
La Thành: Bớt phải thì thầm khi chê trách Đảng và lãnh đạo Đảng là một không khí cởi mở biểu kiến và thụ động, giống như khung cảnh bầy thỏ đang đi lại dạn dĩ và đỡ rón rén hơn trước mũi con sói đã già nua, chậm chạp và đầy bệnh tật. Tin tốt là mọi toan tính đảo ngược tình trạng hiện tại là không thể.
Từ trái sang, Nhà văn Nguyễn Ngọc, Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện, Giáo sư Chu Hảo. – Photo facebook Nguyen Xuan Dien
Phạm Thị Hoài: Đảng bất lực, hay tạm dung tình trạng đó vì tin chắc ở quyền lực của mình?
La Thành: Đảng chưa bao giờ biết đến dung thứ, một khi nó còn có thể hành xử bất dung. Chắc chắn là nó bất lực, và bất an. Các đảng viên cao cấp hiện đang sở hữu những bất động sản và tài khoản giá trị lớn ở nước ngoài. Nhưng ngay sau khi Khối Soviet sụp đổ, một ngân lượng cực lớn tài sản của Đảng, gồm hàng chục tỷ đô-la Mỹ, đã từng được di tản ra nước ngoài để chuẩn bị cho sự lưu vong của bộ máy trung ương của nó. Mới đây nhất, việc Luật An ninh Mạng cùng bộ nghị định để thực hiện nó được vội vã thông qua, siết chặt các quyền tự do tự nhiên và căn bản của nhân dân, đã cáo giác sự hoảng loạn của ban lãnh đạo ĐCSVN trước tiền đồ của chính nó. Toàn Đảng, đặc biệt là bộ phận trung ương của nó, đang ở trong trạng thái bất an tuyệt đối.
Phạm Thị Hoài:Nếu ĐCSVN đã suy yếu như vậy, bạn có tin vào một phong trào bỏ Đảng rầm rộ trong tương lai không xa?
La Thành: Chắc chắn là không. Đoạn tuyệt hay dứt khoát rũ bỏ di sản quá khứ không phải là năng lực tính cách điển hình của người Việt, càng không phải là của những người đã bước chân vào ngôi nhà của Đảng, cho dù di sản đó có tồi tệ và vô giá trị đến đâu, và ngay cả khi họ không còn một lợi ích gì đáng kể gắn liền với tấm thẻ Đảng. Để đoạn tuyệt với một di sản quá khứ tồi tệ, con người cần một năng lực tư duy tự do, óc phê phán và lương tri thuần khiết. Đây là những phẩm chất lý tính khá hiếm hoi trong đời sống tinh thần của người Việt, càng hiếm trong đời sống tinh thần của các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 11/2018- ĐỨC
Phạm Thị Hoài:Nếu hệ thống không bị ảnh hưởng đáng kể thì việc những đảng viên từng có nhiều cống hiến cho sự nghiệp của Đảng, từng giữ những cương vị cao, nay công khai tuyên bố ra khỏi Đảng có thể có tác động gì?
La Thành: Sự chủ động ly khai Đảng của họ chắc chắn gây được tiếng vang. Không những thế, tôi còn tin rằng đó là nước đi tất yếu để họ tự bảo vệ các giá trị đã có của mình trong ván cờ với Đảng và với chính cuộc đời họ. Họ ít nhiều đã và đang xua đi màn sương khói huyền hoặc lâu nay bao quanh các đài hương bệ tượng uy nghi của Đảng, đã và đang góp phần làm xói lở nỗi sợ hãi mà Đảng đã ám thị dân chúng trong ba phần tư thế kỷ cai trị độc đoán của nó. Việc những người như nhà văn Nguyên Ngọc và nhà khoa học Chu Hảo vào Đảng, phục vụ Đảng và đóng góp cho uy quyền của Đảng trong quá khứ là một đáng tiếc. Tuy nhiên, bằng quyết định ly khai Đảng, họ đã chạm tay trở lại vào lương tri và tự do tư duy như những phạm trù đạo đức. Trong lịch sử tồn tại của mình, Đảng đã phạm không ít sai lầm. Quyết định kỷ luật Giáo sư Chu Hảo vừa qua từ Ủy ban Kiểm tra của Đảng là một trong những động thái minh chứng cho sự xơ cứng và u mê già nua của nó.
Một lễ kết nạp đảng- Nguồn: VIETINBANK.VN
Phạm Thị Hoài:Nhưng Đảng vẫn đang được tiếp máu từ các thế hệ trẻ và bất chấp mọi tổn thất, dường như vẫn chưa phải lo thiếu đảng viên?
La Thành: Từ Đại hội VI (1986) đến Đại hội XII (2016), số đảng viên của ĐCSVN đã tăng từ 1,9 triệu lên 4,5 triệu. Trong vòng ba thập niên đó, dân số Việt Nam tăng từ 60 triệu lên 95 triệu, có nghĩa là tỷ lệ đảng viên trong dân cư đã tăng từ 3,1% lên 4,7%. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với sự gia tăng về uy tín chính trị của Đảng, mà chủ yếu xuất phát từ những lý do hình thức, chỉ đơn thuần phản ánh sự phình to của bộ máy quản lý ở tất cả các cấp của hệ thống chính trị. Dĩ nhiên, nó cũng phản ánh sự gia tăng nhu cầu vào Đảng, khi tấm thẻ đảng đảm bảo cho cơ hội thăng tiến trong hệ thống chính trị đó.
Phạm Thị Hoài:Nhu cầu muốn vào Đảng hay áp lực phải vào Đảng?
La Thành: Không có quy định thành văn rằng cán bộ từ cấp nào trở lên thì bắt buộc phải là đảng viên, song chế độ toàn trị và độc tài ý thức hệ do Đảng áp đặt và vận hành hơn nửa thế kỷ qua ở Việt Nam đã khiến công tác tổ chức của nó ngày càng thấm đẫm chủ nghĩa hình thức. Việc phân loại, tuyển chọn và đề bạt nhân sự của Đảng lâu nay đã trở nên máy móc, trọng hình thức hơn nội dung. Không phải các phẩm chất nhân văn, năng lực tư duy và kỹ năng hành động mà các loại “mác mỏ” như bằng cấp, học vị, danh hiệu hay tấm thẻ đảng trở thành mục tiêu tranh thủ giành giật của tất cả những người tìm kiếm cơ hội. Cách đây vài chục năm tôi còn thấy một cán bộ khoa học giữ vị trí lãnh đạo cao cấp mà không phải là đảng viên: Giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Quốc gia – một cơ quan trực thuộc chính phủ ngang cấp bộ – kiêm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, những chức vụ tương đương thứ trưởng và vụ trưởng. Bây giờ khó tìm được trưởng, phó một đơn vị cấp ba (cấp một là các bộ ngành của chính phủ, các ban ngành của Trung ương Đảng, các ủy ban nhân dân hoặc ban chấp hàng đảng bộ tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương) mà không phải là đảng viên. Sĩ quan cao cấp trong các lực lượng vũ trang, tức từ quân hàm thượng tá trở lên, thì gần như bắt buộc phải là đảng viên trước khi được đề bạt.
Phạm Thị Hoài:Tôi nghe nói, vào Đảng bây giờ có khi cũng phải “chạy”, phải vào bằng cửa sau?
La Thành: Trên mọi nấc thang quyền lực, từ địa vị cán bộ hành chính hoặc đảng vụ cấp xã phường đến những vị trí lãnh đạo béo bở ở các công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước hay những chiếc ghế đầy uy quyền ở Ban Chấp hành Trung ương hoặc chính phủ, Đảng đang điều hành mọi công việc, trong đó có công tác phát triển Đảng, theo chủ nghĩa thân tín. Nhân sự có nhu cầu vào Đảng phải tiếp cận và chứng minh sự trung thành của mình với nhân sự lãnh đạo bằng mọi cách khả dĩ, từ những xách quà hay tấm phong bì tiền mặt thô thiển đến những thủ đoạn ủng hộ tinh vi hoặc kín đáo hơn như trợ giúp lãnh đạo kiếm chác lợi ích kinh tế/chính trị, tự nguyện trở thành các tiện ích sinh hoạt cho lãnh đạo như đối tác chơi thể thao, kẻ dẫn bạn tình hoặc làm luôn đối tác tình dục của lãnh đạo. Sự hé mở gần đây của truyền thông về những bộ máy quan chức ở địa phương gồm toàn thân tộc, hay về những hot girltrở thành cốt cán sau một đêm chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh toàn cảnh nhem nhuốc tởm lợm của hệ thống này.
Khai giảng lớp đào tạo cái gọi là “cán bộn nguồn”- Nguồn báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Phạm Thị Hoài:So với thế hệ của bạn và thế hệ trước, đảng viên trẻ hiện nay thế nào?
La Thành: Có thể tạm chia họ thành hai nhóm. Nhóm thực dụng gồm những người vào Đảng cho có đủ “mác mỏ” để tiến thân. Họ ít nhiều có cảm xúc trước một số bất cập nghiêm trọng của chế độ hiện tại, song thường tránh tham gia các tranh luận về chủ đề chính trị, hoặc tham gia ở mức độ an toàn. Đây có lẽ là nhóm đông đảo nhất, mắc hội chứngdoublethink khá nặng. Nhóm “hồng vệ binh” tập hợp những người thành kính và quyết liệt bảo vệ các biểu tượng giá trị của Đảng như Hồ Chí Minh, ý thức hệ Mác Lê, cuộc “kháng chiến chống Pháp” và chiến thắng Điện Biên Phủ, cuộc “kháng chiến chống Mỹ” và chiến thắng 30 tháng Tư năm 1975, cùng những “sáng tạo tài tình” của Đảng như Đổi Mới, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, vân vân. Nhóm này nói chung có sức khỏe tâm thần hạn chế, hầu hết mắc chứng tự kỷ ở mức độ khác nhau.
Phạm Thị Hoài:Và tất cả đều tham dự “sinh hoạt đảng”. Cụ thể đó là cái gì?
La Thành: Theo điều lệ ĐCSVN, đảng viên được tổ chức thành các phân bộ, gọi là đảng bộ, tương ứng với các đơn vị địa lý hành chính hoặc các đơn vị kinh tế-xã hội. Theo thông lệ hiện nay, ở cấp chi bộ sinh hoạt đảng định kỳ diễn ra mỗi tháng một lần. Nội dung là kiểm điểm công việc và hoạt động trong tháng, thường là công việc chuyên môn và hoạt động phong trào, nhắc lại hoặc định hướng kế hoạch công việc và hoạt động tháng tới. Ngoài ra có thể phổ biến nghị quyết của đảng ủy cấp trên hoặc nghị quyết của hội nghị Trung ương gần nhất, thường dưới hình thức đọc tài liệu in sẵn và yêu cầu đảng viên viết bản thu hoạch cá nhân sau khi đọc các văn kiện đó. Buổi sinh hoạt thường kết thúc bằng việc nghe đọc và biểu quyết thông qua một nghị quyết do một người trong ban chấp hành, thường là bí thư chi bộ / đảng bộ, chuẩn bị trước và được các đảng viên góp ý bổ sung trong buổi sinh hoạt. Diễn biến của mọi buổi sinh hoạt Đảng đều được ghi biên bản. Sổ sách ghi chép nghị quyết, biên bản họp, mẫu kiểm điểm cá nhân hiện nay đều được thiết kế, in ấn và phân phát đến từng chi bộ hoặc đảng viên.
Cuối tháng Sáu có họp sơ kết giữa năm và cuối tháng Mười Hai họp tổng kết cả năm. Trong các buổi sinh hoạt đặc biệt này, mỗi đảng viên phải viết bản tự kiểm điểm cá nhân, đọc trước toàn chi bộ rồi nghe các đảng viên khác nhận xét. Cuối buổi sinh hoạt tổng kết năm là tiết mục bình bầu các danh hiệu thi đua để cấp trên khen thưởng.
Phạm Thị Hoài:Thế đảng viên trau dồi chủ nghĩa Mác-Lê vào lúc nào?
La Thành: Các chuyên gia của Đảng lâu nay đã cho ra đời ba bộ giáo trình sơ cấp, trung cấp và cao cấp cho các môn Triết học Mác-Lênin, Kinh tế Chính trị Mác-Lênin và Chủ nghĩa Cộng sản Khoa học. Chương trình sơ cấp dành cho các trường cao đẳng và đại học không thuộc lực lượng vũ trang hoặc Trung ương Đảng, chiếm 15% thời lượng đào tạo mỗi khóa học, theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cán bộ nguồn cho vị trí trưởng/phó các đơn vị cấp ba và cấp hai bắt buộc phải có chứng chỉ đã qua chương trình trung cấp ở các khóa học tại các trường đảng cấp tỉnh/thành, trong khi học viên sĩ quan các trường đại học của quân đội và công an được thụ huấn chương trình này ngay trong quá trình đào tạo. Cán bộ nguồn cho vị trí lãnh đạo cao cấp (trưởng/phó các cơ quan từ cấp một đến cấp trung ương), tướng lĩnh chỉ huy hoặc chính ủy các đơn vị cấp chiến dịch-chiến lược của lực lượng vũ trang phải có chứng chỉ đã qua chương trình cao cấp ở một khóa học tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh hoặc Học viện Quốc phòng.
Phạm Thị Hoài:Ảnh hưởng của Đảng ở thành phố và nông thôn có khác nhau nhiều không?
La Thành: Ở nông thôn, người dân nói chung đồng nhất Đảng với chính quyền về quan niệm. Điều này không có nghĩa ảnh hưởng của Đảng ở nông thôn là tích cực. Tệ nạn gia đình trị và tham nhũng, đặc biệt là tham nhũng đất đai và tham nhũng chính sách, của các đảng bộ và chính quyền địa phương trong nhiều năm qua đã gây nhiều bất bình và phản kháng trong dân chúng, điển hình là các sự kiện như Đoàn Văn Vươn 2012, Formosa 2016, Đồng Tâm-Mỹ Đức 2017, Bình Thuận 2018. Còn ở thành phố, ảnh hưởng của Đảng đa dạng hơn. Trong các cơ quan và doanh nghiệp nhà nước, đảng tịch và sinh hoạt Đảng vẫn còn là những yếu tố điều kiện ảnh hưởng đến cơm áo và thăng tiến của một bộ phận cán bộ nhân viên, song cũng chỉ dừng ở các ảnh hưởng kinh tế. Dân đô thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, khinh nhờn Đảng hơn, song ý thức phản kháng lại yếu hơn so với dân nông thôn. Uy quyền chính trị của Đảng ở thành phố giống như các zombie, những thây ma hôi thối vẫn tiếp tục áp đặt luật chơi của nó lên cuộc sống hiện tại.
Phạm Thị Hoài:Trên những kênh phi chính thống như mạng xã hội, vỉa hè, công khai phê phán, giễu cợt và chửi Đảng hoặc các lãnh đạo Đảng dường như đã trở thành một môn thể thao toàn dân, thậm chí với sự tham gia của cả các đảng viên. Như vậy, có thể coi là xã hội Việt Nam đã cởi mở hơn nhiều so với vài thập niên trước không?
La Thành: Bớt phải thì thầm khi chê trách Đảng và lãnh đạo Đảng là một không khí cởi mở biểu kiến và thụ động, giống như khung cảnh bầy thỏ đang đi lại dạn dĩ và đỡ rón rén hơn trước mũi con sói đã già nua, chậm chạp và đầy bệnh tật. Tin tốt là mọi toan tính đảo ngược tình trạng hiện tại là không thể.
Từ trái sang, Nhà văn Nguyễn Ngọc, Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện, Giáo sư Chu Hảo. – Photo facebook Nguyen Xuan Dien
Phạm Thị Hoài: Đảng bất lực, hay tạm dung tình trạng đó vì tin chắc ở quyền lực của mình?
La Thành: Đảng chưa bao giờ biết đến dung thứ, một khi nó còn có thể hành xử bất dung. Chắc chắn là nó bất lực, và bất an. Các đảng viên cao cấp hiện đang sở hữu những bất động sản và tài khoản giá trị lớn ở nước ngoài. Nhưng ngay sau khi Khối Soviet sụp đổ, một ngân lượng cực lớn tài sản của Đảng, gồm hàng chục tỷ đô-la Mỹ, đã từng được di tản ra nước ngoài để chuẩn bị cho sự lưu vong của bộ máy trung ương của nó. Mới đây nhất, việc Luật An ninh Mạng cùng bộ nghị định để thực hiện nó được vội vã thông qua, siết chặt các quyền tự do tự nhiên và căn bản của nhân dân, đã cáo giác sự hoảng loạn của ban lãnh đạo ĐCSVN trước tiền đồ của chính nó. Toàn Đảng, đặc biệt là bộ phận trung ương của nó, đang ở trong trạng thái bất an tuyệt đối.
Phạm Thị Hoài:Nếu ĐCSVN đã suy yếu như vậy, bạn có tin vào một phong trào bỏ Đảng rầm rộ trong tương lai không xa?
La Thành: Chắc chắn là không. Đoạn tuyệt hay dứt khoát rũ bỏ di sản quá khứ không phải là năng lực tính cách điển hình của người Việt, càng không phải là của những người đã bước chân vào ngôi nhà của Đảng, cho dù di sản đó có tồi tệ và vô giá trị đến đâu, và ngay cả khi họ không còn một lợi ích gì đáng kể gắn liền với tấm thẻ Đảng. Để đoạn tuyệt với một di sản quá khứ tồi tệ, con người cần một năng lực tư duy tự do, óc phê phán và lương tri thuần khiết. Đây là những phẩm chất lý tính khá hiếm hoi trong đời sống tinh thần của người Việt, càng hiếm trong đời sống tinh thần của các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phỏng vấn này được thực hiện qua thư điện tử, với một người bạn sống ở Việt Nam, từng cộng tác với tôi ở cả hai giai đoạn làm báo, talawas và pro&contra, bút danh La Thành.
Phạm Thị Hoài: Tôi còn nhớ, nhiều năm trước khi chúng ta đang làm việc chung cho talawas, tôi đã rất bất ngờ khi bạn cho biết bạn là đảng viên. Bạn vào Đảng trong hoàn cảnh nào?
La Thành: Vào sát thời điểm tốt nghiệp trung học phổ thông, tôi nộp đơn thi vào một trường đại học kỹ thuật của quân đội, một cơ sở đào tạo sau bậc phổ thông mà lâu nay vẫn được xếp vào hàng các trường “trọng điểm” của khối đại học công lập. Đó là những năm cuối cùng của giai đoạn lịch sử được gọi là “thời bao cấp”, trước thời kỳ Đổi Mới. Sức cuốn hút của hình ảnh các sinh viên đại học mặc quân phục, sự khác biệt trong thủ tục sơ tuyển (về sức khỏe, lý lịch và học lực) đã là những yếu tố quyết định sự lựa chọn đầu đời này của tôi lúc đó, một thiếu niên có tâm hồn lãng mạn, nhìn cuộc sống chủ yếu qua ô cửa sổ các cuốn tiểu thuyết văn học cổ điển, báo Thiếu Niên và báo Tiền Phong.
Hai mươi phần trăm thời lượng đào tạo của khóa học dài 5 năm được dành cho các môn học về chính trị và quân sự đã ít nhiều nhồi vào đầu óc tôi những luận điểm chính thống về hệ thống chính trị – xã hội mà tôi đang sống trong đó. Tôi được biết rằng ở Việt Nam, nơi đã ra đời “nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á”, các lực lượng vũ trang được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp – tuyệt đối – về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này liên quan trực tiếp đến câu khẩu hiệu về mục tiêu đào tạo của nhà trường, “KỸ SƯ – SĨ QUAN – ĐẢNG VIÊN”, được căng kẻ khắp nơi trong khuôn viên của trường. Tuy nhiên, kiểu tính cách của tôi không phù hợp để tôi đạt được trọn vẹn cả ba mục tiêu này vào thời điểm tôi ra trường.
Tôi trải qua ba đơn vị quân đội trước khi quay trở lại đúng cái alma mater của mình để làm giảng viên ở một bộ môn khoa học, vào lúc tôi đã đeo lon đại úy song vẫn chưa có đảng tịch. Chi bộ của bộ môn, mà một nửa trong số họ vốn là những người thầy cũ của tôi, lập tức cử người theo-dõi, giúp-đỡ để phát-triển-Đảng cho tôi (các từ in nghiêng là những thuật ngữ rất chuẩn mực của môn khoa học mà cụ đương kim lãnh tụ số một của đất nước đang là sư phụ). Đối với họ, việc một giảng viên đại học kiêm một sĩ quan quân đội phải vào Đảng là chuyện đương nhiên, miễn thảo luận: ít nhất, nó có lợi cho xu hướng thăng tiến mặc định vào thời điểm đó của tôi, cũng như cho số liệu thống kê “thành tích phát triển Đảng” của đảng bộ đơn vị.
Tôi được phân công số giờ giảng nhiều nhất trong bộ môn, cùng một vài công tác phong trào khác. Cuối năm đó, tôi được bầu làm “chiến sĩ thi đua” và được giới thiệu để chi bộ làm thủ tục kết nạp vào Đảng.
Phạm Thị Hoài: Nhưng từ nhiều năm nay bạn đã thầm lặng thoái Đảng. Đảng viên có những cách nào để ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam? La Thành: Về bản chất, sự gia nhập Đảng của mỗi cá nhân là một quá trình đồng thời công nhận lẫn nhau giữa cá nhân đó và tổ chức Đảng, trong khi sự ra khỏi Đảng của một đảng viên là một quá trình ngược lại: sự bất cần và không công nhận của một trong hai bên hoặc cả hai bên với nhau.
Như vậy, một đảng viên có thể ra khỏi Đảng một cách thụ động khi Đảng (được đại diện bởi phân bộ Đảng trực tiếp quản lý) giành quyền chủ động khai trừ đảng viên ấy ra khỏi Đảng và xóa tên khỏi danh sách đảng viên của phân bộ, mặc dù đảng viên ấy chưa từng bộc lộ biểu hiện bất cần Đảng. Điều này thường xảy ra đối với các đảng viên phạm pháp hình sự và bị khởi tố, hoặc các đảng viên có những vấn đề nghiêm trọng về đạo đức theo các tiêu chí của Đảng. Hiếm hoi hơn, đó là khi người đảng viên nảy sinh mâu thuẫn với Đảng trong phạm trù chính trị – tư tưởng, mặc dù chưa hoặc không có nguyện vọng ra khỏi hàng ngũ Đảng nhưng vẫn bị Đảng chủ động khai trừ. Một trong các thí dụ nổi tiếng của trường hợp này là sự kiện tướng Trần Độ bị thu hồi đảng tịch.
Ở chiều ngược lại, một đảng viên có thể ra khỏi Đảng một cách chủ động khi có ý chí loại bỏ các giá trị – lý luận hoặc thực tiễn, hoặc cả hai – của Đảng khỏi cuộc sống của mình, bằng cách này hay cách khác. Trong tình huống này, người đảng viên chủ động bỏ Đảng có hai cách lựa chọn: công khai viết đơn xin ra khỏi Đảng hay tuyên bố từ bỏ đảng tịch một cách chính thức, hoặc lặng lẽ bỏ sinh hoạt đảng.
Phạm Thị Hoài: Cách của bạn như thế nào?
La Thành: Từ nhiều năm nay, tôi đã bỏ không sinh hoạt đảng. Khi chuyển công tác khỏi đơn vị, tôi được Ban Tổ chức của đơn vị (tức bộ phận Đảng vụ) viết phiếu chuyển sinh hoạt đảng, đồng thời giao lại cho tôi bộ hồ sơ đảng viên của tôi. Tôi mang bộ hồ sơ về nhà và cho vào két sắt. Mọi người nói đùa rằng làm như thế là “gia nhập quần chúng chui”.
Phạm Thị Hoài: Vì sao bạn chọn cách đó?
La Thành: Thực ra, lúc đang còn trong quân đội, trong một lần sinh hoạt chi bộ hàng tháng, tôi đã từng đề xuất khả năng tôi xin ra khỏi Đảng, nhưng ngay lập tức, các vị “đàn anh” trong chi bộ lúc ấy chặn ngay: “Cậu muốn ra khỏi Đảng, đi chỗ khác mà ra. Cậu ra ở đây ảnh hưởng đến nhiều người.” Quả thật đó là một thực tế, vì nếu tôi xin ra khỏi Đảng một cách chính tắc, năm đó cái chi bộ mà tôi là thành viên chắc chắn sẽ mất danh hiệu “Chi bộ Trong sạch Vững mạnh”. Một số đảng viên sẽ không được công nhận các danh hiệu “Chiến sĩ Thi đua” hay “Chiến sĩ Quyết thắng”. “Điểm thi đua tích lũy” của các đảng viên còn lại trong chi bộ có thể bị ảnh hưởng; đó là một hình thức số hóa công trạng, sẽ được tham chiếu khi phân nhà, chia đất, khi xét tặng các loại huân chương, huy chương, kỷ niệm chương theo niên hạn… Sau nhiều thập kỷ cai trị, hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thành công trong việc huấn luyện để các cán bộ nòng cốt của nó cả đời chỉ bận bịu tự sỉ nhục mình theo cách đó mà không thể ngẩng đầu lên để nhìn thấy những thứ khác…
Tóm lại, tôi lựa chọn phương án “gia nhập quần chúng chui”, một mặt để không ảnh hưởng tới các đồng nghiệp cũ của tôi, mặt khác vì tôi tự xác định tôi không phải là một đảng viên thuộc loại “nhân vật của công chúng”, việc tôi công khai ý nguyện từ bỏ Đảng sẽ không làm xói mòn bao nhiêu “sức đề kháng” của nó, trừ phi đã bắt đầu xuất hiện một phong trào bỏ Đảng rầm rộ, mà điều này thì rõ ràng là chưa xảy ra.
Phạm Thị Hoài: Theo bạn ước tính, tỷ lệ đảng viên bỏ Đảng hiện ở mức nào?
La Thành: Như đã phân tích ở trên, cụm từ “bỏ Đảng” thực ra chỉ dành cho các đảng viên có ý chí ra khỏi Đảng một cách chủ động, khi giành quyền loại bỏ các giá trị lý luận và thực tiễn của Đảng ra khỏi cuộc sống của mình. Như vậy, đảng viên bỏ Đảng đều ít nhiều là những nhà bất đồng chính kiến. Họ có thể là các công chức hoặc thành viên lực lượng vũ trang tự chuyển khỏi khu vực nhà nước vì những lý do khác nhau, hoặc là một bộ phận trong những người về hưu. Chưa từng có thống kê chính thức, song tôi cho rằng ở thời điểm hiện nay, con số đảng viên chủ động bỏ Đảng có thể đến vài chục ngàn, và như vậy mới chỉ vào khoảng xấp xỉ 1% trong tổng số bốn triệu đảng viên của Đảng.
Phạm Thị Hoài: Bỏ Đảng chắc chắn là việc khó. Khó tới mức nào?
La Thành: Theo nhìn nhận của tôi, đối với các “nguyên đảng viên” chủ động bỏ Đảng, việc ly khai các giá trị của Đảng đồng nghĩa với việc tự loại bỏ các khó khăn về tinh thần ra khỏi cuộc sống của mình. Tôi chưa từng quan sát thấy đảng viên nào lựa chọn buông bỏ các giá trị của Đảng kèm theo những mất mát lớn trong đời sống vật chất trước đó của họ.
Phạm Thị Hoài: Còn khoảng cách thực tế giữa việc chia tay Đảng trong tư tưởng và công khai tuyên bố bỏ Đảng?
La Thành: Khoảng cách đó, theo tôi nghĩ, tỷ lệ thuận với mức độ nổi tiếng của người đảng viên bất đồng chính kiến, và điều này thường tương đồng với cấp bậc của người đó trong hệ thống đẳng cấp của Đảng. Đối với các đảng viên cấp thấp, “chia tay Đảng trong tư tưởng” hay tuyên chiến công khai với tấm thẻ Đảng không khác nhau nhiều. Trong khi đó, đối với các đảng viên cao cấp và/hoặc nổi tiếng như Nguyên Ngọc, Chu Hảo, Mạc Văn Trang hay nghệ sĩ Kim Chi, công khai hành động chia tay đội ngũ Đảng rõ ràng là có tiếng vang hơn nhiều so với khi họ “áo gấm đi đêm”, một khi truyền thông và mạng xã hội không thể thờ ơ với động thái này của họ.
Phạm Thị Hoài: Nhưng những đảng viên âm thầm thoái Đảng, họ có thực sự làm giảm sức mạnh của Đảng không?
La Thành: Câu trả lời của tôi là “không”.
Phạm Thị Hoài: Đảng không thực sự coi đó là một nguy cơ đáng kể hay sao?
La Thành: Đảng số của Đảng Cộng sản Việt Nam, như mọi đảng toàn trị đã từng hoặc đang tồn tại trên thế giới, là một con số thuần túy hình thức, không có giá trị đo đếm sức mạnh ý chí hoặc đạo đức của Đảng. Sau hơn nửa thế kỷ cai trị trong điều kiện toàn trị, Đảng đã hoàn thiện một hệ thống chính trị thiên về hình thức, với bản chất là quyền lực chỉ tập trung ở bộ phận trung ương của nó, mà các đảng viên ở bộ phận này hầu như không bao giờ bỏ Đảng, trừ một vài trường hợp hết sức hiếm hoi không đáng kể. Các đảng viên tầm trung và tầm thấp hoặc bám vào hệ thống chính trị đó như các động vật ký sinh, hoặc từ giã hệ thống này vì lý do nhận thức: cả hai trường hợp đều không ảnh hưởng đến quán tính vận hành của hệ thống. Hệ thống ấy khó có thể bị sứt mẻ bởi một cộng đồng dân chúng mà tuyệt đại đa số đã được tẩy não bằng một huyền thoại lịch sử đã được nhào nặn kỹ càng và hoàn toàn khiếp nhược trước các biểu tượng răn đe.
Nếu có thể ví Đảng với một cơ thể sống, tôi mường tượng nó như một động vật cấp thấp, là loài rắn chẳng hạn. Mà động vật cấp thấp thì khó chết chỉ vì 1% cơ thể đang ung thối hay hoại tử, không phải bộ phận đầu não của nó.
Cuối tháng 9 năm 1989, tôi từ Sài Gòn ra, vừa đến trụ sở báo Lao Động (51 Hàng Bồ, Hà Nội) thì cô Phạm Thị Châu, trưởng phòng hành chính đến gặp. Cô trao tấm danh thiếp của anh Trần Xuân Bách gửi cho tôi và háo hức kể: Xe đỗ trước cơ quan, bác ấy đi vào, nói “tôi xin gặp anh Tống Văn Công”. Em trả lời: “Thưa bác, anh Công về Sài Gòn. Hiện đang có mặt hai phó tổng biên tập là anh Huy Đan và Phạm Văn Nhàn. Bác có thể gặp anh nào ạ?” Bác ấy mở cặp lấy danh thiếp đưa cho em, nói: “Khi nào anh Công ra, đồng chí đưa giùm tôi nhé, nói là tôi đang đợi anh ấy gọi”. Từ lâu tôi đã được ba người bạn có dịp gần gũi anh Trần Xuân Bách là nhà văn Nguyễn Khải gần anh khi còn làm báo quân khu 3 thời chống Pháp, dịch giả Lê Minh Đức gần anh ở ban Dân vận Trung ương và anh Đinh Gia Bảy ủy viên Ban Thư ký Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam từng làm việc dưới quyền của anh Bách lúc giúp bạn ở Campuchia, kể nhiều chuyện về anh Bách, “một người tài đức song toàn”. Tôi cũng được đọc nhiều bài viết của anh, rất hâm mộ, nhưng chưa có dịp gặp, không ngờ tôi lại được anh tìm! Trước khi vào Sài Gòn, tôi đã dự hội nghị nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 7 (Khóa 6), nên cảm nhận việc anh Trần Xuân Bách đến tìm là điều quan trọng.
Xin nhắc lại một kết luận của Nghị quyết trung ương 7:
Về tình hình thế giới:
Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở một số nước xã hội chủ nghĩa đã thu được những thành tựu nhất định, nhưng ở một số nước gặp khó khăn gay gắt, có nước chủ nghĩa xã hội đang đứng trước thách thức lớn. Lợi dụng tình hình khó khăn trên đây ở một số nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ mở cuộc phản kích quyết liệt vào chủ nghĩa xã hội, bằng những thủ đoạn rất xảo quyệt: Răn đe về quân sự; cổ vũ chủ nghĩa đa nguyên chính trị; dùng kinh tế khuyến khích việc cải cách theo hướng phát triển kinh tế tư nhân, thị trường tự do tư bản chủ nghĩa.
Tình hình trong nước:
Những khó khăn về kinh tế và xã hội đã và đang bắt đầu xuất hiện ở nước ta, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: các lực lượng bên ngoài đang tập trung đả kích, xuyên tạc Đảng ta không mạnh dạn cải cách chính trị, hạn chế dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tự do sáng tác, phê bình.
Trong bốn khuyết điểm dẫn đến tình hình trên, có:”Buông lỏng công tác tư tưởng, thiếu tinh thần chiến đấu chống những tư tưởng, quan điểm lệch lạc, những hành động và lời nói sai trái.
Nghị quyết nhấn mạnh những nguyên tắc của chính sách: Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị.
Như vậy, anh Trần Xuân Bách đang là nhân vật có “vấn đề”!
Sau khi cô Châu rời khỏi phòng, tôi gọi điện ngay cho anh Trần Xuân Bách. Giọng anh rất vui: “Bảy giờ tối, tôi đợi anh nhé”. Tôi đáp: “Tôi muốn cùng anh Phạm Văn Nhàn phó tổng biên tập đến thăm anh?” Anh Bách rất vui vẻ: “Ồ, càng nhiều anh em càng vui”.
Tôi không muốn một mình đến anh Bách vì đã có kinh nghiệm qua việc nhà văn Nguyên Ngọc gửi bài cho báo, tôi chưa đọc, nhưng cơ quan an ninh đã cử cán bộ đến yêu cầu được đọc trước! Tôi kể chuyện này với phó tổng biên tập Phạm Văn Nhàn (hiện nay, anh Nhàn ở khu nhà tập thể báo Lao Động, quận Cầu Giấy). Anh Nhàn nói: “Anh ấy bảo càng nhiều anh em càng vui, vậy ta rủ thêm Lưu Văn Hân, vì Hân quen thân với bên vợ anh Bách”. Tôi gọi điện rủ, anh Hân rất vui vẻ nhận lời (anh Lưu Văn Hân lúc ấy là Vụ trưởng Vụ báo chí, Bộ Văn hóa Thông tin, anh Trần Hoàn là bộ trưởng).
Ba chúng tôi đến biệt thự của anh Bách trên đường Phan Đình Phùng bằng chiếc u-oat của báo Lao Động do tài xế cựu chiến binh Nguyễn Văn Tiến lái. Có vài người mặc thường phục đứng trên vỉa hè dòm ngó. Tôi bảo với người bảo vệ là chúng tôi được anh Bách hẹn. Anh bảo về gọi điện thoại vào nhà xin ý kiến. Tôi cứ tưởng anh Bách sẽ cho người giúp việc ra đón chúng tôi, không ngờ anh đích thân chạy ra cổng. Tôi nói “chúng tôi đến quá một người!” Anh Bách cười vui “cảm ơn các anh, tôi rất vui!” Anh đưa chúng tôi lên lầu. Chị Bách chờ sẵn, mời chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn kê sát tường. Chị pha cà phê, gọt táo và cùng ngồi với chồng tiếp khách. Thấy bên cạnh tấm lịch treo tường có kẹp bài thơ, ký tên Bách Xuân, tôi hỏi đùa: “Muốn xin anh bài thơ này đăng trang văn nghệ của báo?” Anh nhìn chị, cười đáp: “Thơ mình chỉ dành riêng cho một bạn đọc này thôi”. Có lẽ, chị Bách nghĩ rằng mấy ông khách thấy chị quá trẻ so với anh, nên đã vui vẻ kể: “Hồi em mới lấy anh ấy, các bạn cứ trêu, sao lấy ông chồng quá đát vậy? Em trả lời, nhưng tâm hồn anh ấy rất trẻ!” Sau mấy chuyện vui, tôi kể cho anh Bách nghe về lớp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 7 của cán bộ cốt cán toàn quốc trước đây hơn một tuần. Anh Bách nghe rất chăm chú.
Lớp nghiên cứu này do ông Đào Duy Tùng ủy viên Bộ Chính trị phụ trách khối tư tưởng văn hóa thuyết trình. Ông nghe phản ánh ý kiến học viên ở các tổ thảo luận, tổng kết đợt học và giải đáp thắc mắc. Sau khi nghe ông Tùng giảng ở hội trường, ban tổ chức lớp học chia học viên theo ngành công tác vào các tổ thảo luận. Tôi dự thảo luận ở tổ báo chí, gồm các tổng biên tập, báo chí, đài, nhà xuất bản ở trung ương (có lẽ các tổ viên ngày ấy chỉ mỗi nhà thơ Hữu Thỉnh còn có mặt trong guồng máy hiện hành). Tổ trưởng hướng dẫn thảo luận là anh Thái Ninh, phó trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (đến Đại hội 7, anh Thái Ninh là trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, anh Hữu Thọ phó trưởng ban thường trực). Khi thảo luận câu hỏi “Vì sao Đảng ta không chấp nhận đa nguyên chính trị”, anh Bùi Tín, phó tổng biên tập Báo Nhân Dân xin phát biểu. Bùi Tín cho biết, anh rất lúng túng khi bị nhiều đồng chí đảng viên các đảng bạn ở Phương Tây hỏi vì sao đảng Cộng sản Việt Nam lại không chấp nhận đa nguyên. Theo Bùi Tín, bản chất cuộc sống là đa nguyên, thực tế Việt Nam cũng đang có những yêu tố đa nguyên: bên cạnh đảng Cộng sản có đảng Dân Chủ, đảng Xã Hội; Mặt trận Tổ quốc gồm có nhiều tổ chức Nông dân, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ… mỗi giới có tờ báo nói tiếng nói của mình. Phải đa nguyên mới thực sự dân chủ. Anh Bùi Tín nói hơn 30 phút. Cả tổ im lặng lắng nghe. Tổ trưởng Thái Ninh ghi ghi chép chép, không tỏ ra sốt ruột. Không ngờ hôm sau, khi tổng kết và trả lời thắc mắc, ông Đào Duy Tùng đã gay gắt phê phán: “Thật đáng chê trách, tại hội nghị này, gồm những cán bộ tuyên huấn cốt cán của Đảng, lại có một đồng chí nồng nhiệt cổ vũ đa nguyên chính trị! Đồng chí đó không biết rằng, đa nguyên là luận điệu mị dân của các chính trị gia tư sản? Bọn chúng gồm những tập đoàn tài phiệt, cần có đa nguyên để cạnh tranh với nhau. Giai cấp công nhân có sứ mệnh độc quyền lãnh đạo cách mạng, chỉ cần liên minh chiến lược với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức cách mạng. Chủ nghĩa xã hội thực hiện tập trung dân chủ, phải chống đa nguyên. Hôm nay đòi đa nguyên, rồi ngày mai sẽ đòi đa đảng, phải không?”
Anh Bách trầm ngâm, rồi nói: “chúng ta đã thực hiện đa nguyên kinh tế, vậy phải thực hiện đa nguyên chính trị, bước tới bằng hai chân mới cân bằng, không bị vấp váp”. Anh hỏi thêm về Bùi Tín, nhưng tôi chỉ gặp anh Bùi Tín hai lần mà cả hai lần đều cùng là khách được mời ăn cơm. Lần đầu tháng năm 1975, ở Sài Gòn anh Phước Sanh cán bộ báo Quân đội Nhân dân mời dự bữa cơm có sếp của anh là phó tổng biên tập Bùi Tín; lần thứ hai ở Hà Nội, nhà thơ Hải Như mời Bùi Tín, bác sĩ Vân (B) và tôi, chỉ ít lâu trước khi anh Bùi Tín đi họp báo Nhân đạo và ở lại Pháp. Lúc ông Đào Duy Tùng chì chiết anh Bùi Tín, tôi ngồi ở hàng ghế ngay sau lưng anh.
Hơn 10 giờ khuya, anh Bách tiễn chúng tôi ra tận cổng. Trước khi chia tay, tôi đề nghị: bất cứ lúc nào, anh rảnh, tôi xin mời anh đến nơi tôi ở, số 14 Trần Bình Trọng, đối diện với Bộ Công an. Tôi muốn được anh giải đáp cho một số câu hỏi. Và tôi gợi ý: Anh nên cho dừng xe ở Nguyễn Du, rồi đi bộ vào cổng, tôi sẽ đón bên trong. Kể ra cũng buồn cười, đón ông ủy viên Bộ Chính trị mà phải lén lút như quan hệ với kẻ gian! Hồi đó, tôi vẫn nghĩ nơi ở của mình kín đáo lắm, nên đã từng tiếp đón nhiều bạn bè có lý lịch mà phía an ninh coi là không được trong sáng như Nguyễn Kiến Giang, Lê Đạt, Dương Tường, Phạm Thị Hoài… mãi sau này, tôi mới biết là mọi việc xảy ra ở báo Lao Động đều có trong hồ sơ của cơ quan an ninh! Biết đâu chuyện tôi sắp kể ra đây cũng không phải là ngoại lệ!
Chỉ vài hôm sau, anh Bách hẹn đến, từ hôm đó tôi may mắn được hầu chuyện anh. Tôi đã đặt những câu hỏi với tư cách một nhà báo mong muốn tìm thấy lộ trình đi tới tự do dân chủ cho dân tộc. Rất tiếc vì nhiều lý do, ý kiến tâm huyết của anh, một nhà cách mạng, một trí thức lớn nhất của đảng Cộng sản Việt Nam mà tôi ghi chép nhiều buổi, đã không thể phổ biến đúng lúc. Lý do là vì nền “báo chí nói tiếng nói của Đảng” không cho phép, nhưng lý do chính mà tôi phải nhận là bởi sự hèn kém của mình. Phần hồi ức này, tôi xin ghi lại một số câu hỏi và giải đáp của anh không chỉ có ý nghĩa lịch sử, mà nó vẫn đang còn nguyên giá trị thời sự trong tình hình hiểm nghèo của đất nước trước họa ngoại xâm, và nội xâm, đang rất cần dân chủ hóa để tăng nội lực của dân tộc. Và đây cũng là món nợ ân tình đối với anh, nhiều năm nay lòng tôi luôn bứt rứt.
Hỏi: Tháng 6 năm 1988, Nghị quyết Trung ương 5 cho rằng khuyết điểm nghiêm trọng nhất trong công tác xây dựng Đảng là “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nghị quyết cho rằng “mở rộng dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ luật”, và phải “chống những mưu đồ lợi dụng dân chủ và công khai để chống lại sự nghiệp của Đảng và nhân dân”. Đến tháng ba năm 1989, Nghị quyết Trung ương 6 nhắc lại phải “mở rộng dân chủ, dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật”. Tháng tám năm 1989, Nghị quyết Trung ương 7 kết luận: “Xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị”.
Những kết luận nói trên, cho thấy “dân chủ” như một khái niệm rất mơ hồ, có thể thu hẹp lại, hoặc mở rộng ra. Nhưng mở rộng ra thì phải kèm với “tập trung”, với “kỷ luật”, nếu không thì sẽ xảy ra tình trạng vô chính phủ, hoặc bị bọn phản động có “mưu đồ lợi dụng dân chủ, công khai, chống lại sự nghiệp của Đảng và nhân dân?”
Đáp: Dân chủ không hề có chỗ cho thứ tự do vô chính phủ nảy nở. Chế độ dân chủ thiết lập trên cơ sở một bản hiến pháp được xây dựng từ ý chí tự do của nhân dân lựa chọn hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Hiến pháp quy định thể thức bảo đảm tổng tuyển cử tự do, không phân biệt khuynh hướng chính trị, quy định cách thức hoạt động của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, bảo đảm các quyền tự do của con người và sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu tuyên ngôn độc lập nước ta, đã nhắc lại tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ và tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, nói đến các quyền tự do của con người mà tạo hóa cho họ. Dân chủ là thể chế hóa các quyền tự do ấy. Cho nên dân chủ là quyền lực của dân, với tư cách là con người tự do. Dân chủ không phải do lòng tốt của những người lãnh đạo muốn bạn ơn cho dân, thấy thuận lợi thì mở rộng, thấy bất tiện thì thu hẹp.
Đại hội 6 kết luận lấy “dân làm gốc”. Dân chủ sẽ khởi động trí tuệ toàn dân tộc, “gốc” sẽ ngày càng vững mạnh, ngăn chặn quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm. Chế độ dân chủ không có chỗ cho những ai muốn lợi dụng, bè phái. Chỉ có chế độ độc đoán, quan liêu, khép kín mới là rất tốt cho những kẻ xấu làm dụng quyền lực làm những điều phi pháp.
Hỏi: Chế độ dân chủ như vừa miêu tả ở trên có trái với “nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” mà Nghị quyết Trung ương 7 kêu gọi xây dựng và phát huy?
Đáp: Chúng ta đã chọn mô hình giáo điều, lai ghép chủ nghĩa xã hội Stalin với chủ nghĩa xã hội Mao Trạch Đông. Liên Xô và các nước Đông Âu đang lâm vào khủng hoảng bởi mô hình Stalin, vi phạm dân chủ, duy ý chí, quan liêu, đặc quyền, đặc lợi. Thế giới xã hội chủ nghĩa phải cải tổ, đổi mới, giải quyết những mâu thuẫn, phá vỡ cái cũ, đạt tới các tiêu chí của thời đại là: dân chủ, khoa học, nhân đạo, hiện đại. Xu thế chủ yếu là chuyển sang sở hữu tư nhân, kinh tế hàng hóa, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự.
Chúng ta đã đổi mới kinh tế, thực hiện sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường. Đã đến lúc phải đổi mới chính trị, dân chủ hóa xã hội, từng bước thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà Marx và Engels đã đề ra trong tuyên ngôn Cộng sản: sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Không đổi mới chính trị nhịp nhàng với đổi mới kinh tế thì đến một lúc nào đó sự phát triển kinh tế cũng sẽ bị chựng lại, bởi những rào cản quan liêu, tham nhũng, hạn chế sáng kiến. Đổi mới kinh tế là thực hiện đa nguyên kinh tế, kinh tế nhiều thành phần sẽ làm cho xã hội có sự phân tầng, mỗi giai tầng có quyền lợi, nguyện vọng khác nhau, từ đó nảy sinh đa nguyên chính trị. Đổi mới chính trị là từng bước chấp nhận đa nguyên chính trị song song với đa nguyên kinh tế, đúng như Marx, Engels: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội – cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra – cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của ấy”. (Lời tựa cho tuyên ngôn của đảng Cộng sản bản tiếng Đức, 28-6-1883).
Từ một xã hội khép kín, một quốc gia đóng cửa, chúng ta khởi xướng đổi mới, mở cửa, làm bạn với tất cả các nước. Vậy thì trong nước cũng phải là một xã hội mở, chấp nhận tự do báo chí, tự do ngôn luận, nhiều tiếng nói có quan điểm khác biệt đối thoại, thương thảo, quyết định thuộc về đa số, nhưng thiểu số được tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người và quyền công dân theo hiến pháp, không được ban hành luật lệ vi hiến để hạn chế các quyền ấy. Đảng lãnh đạo, cầm quyền, nhưng quyền lực thuộc về nhân dân. Do đó, đảng phải nằm trong chứ không nằm ngoài và không được đứng trên xã hội.
Hỏi: Chúng ta có sợ đa nguyên chính trị sẽ làm suy yếu đảng Cộng sản Việt Nam và cuối cùng là mất quyền lãnh đạo? Bởi vì chấp nhận đa nguyên chính trị thì phải thực hiện các quyền tự do, trong đó có quyền lập hội, từ đó xuất hiện đảng đối lập có cương lĩnh cạnh tranh với đảng Cộng sản?
Đáp: Đó chính là sự ngộ nhận của những ai có thói quen độc quyền chân lý, theo chủ nghĩa giáo điều. Xu thế thời đại là tự do, dân chủ. Cách mạng khoa học kỹ thuật, bùng nổ thông tin, giao lưu quốc tế làm cho xu thế đó chuyển động rất nhanh chóng và có tính dây chuyền. Không ai có thể bưng bít thông tin, ngoảnh mặt trước đòi hỏi của nhân dân, ngăn chặn sự vận động tất yếu của cuộc sống. Bản chất của cuộc sống là đa nguyên. Đổi mới chính là thuận theo bản chất cuộc sống xã hội vốn mang tính đa nguyên cả về kinh tế, chính trị, văn hóa. Trên kia đã nói, đảng nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên xã hội, có nghĩa là thế nào? Đổi mới chính trị, trước hết Đảng phải tự đổi mới mình, phải trở thành đảng dân tộc, kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời đại. Đảng phải thực hiện dân chủ mạnh mẽ từ trên xuống dưới, từ Bộ Chính trị trở đi.
Đảng không bao biện lấn sân làm thay nhà nước, không duy trì chế độ đảng trị, toàn trị. Nhà nước là công cụ của dân. Nhà nước quản lý theo luật và bằng chính sách chứ không làm thay doanh nghiệp. Kế hoạch nhà nước nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên thị trường. Ngược lại, nếu duy trì tình trạng như hiện nay thì không phải làm cho Đảng, cho nhà nước vững mạnh mà là tạo môi trường xã hội dung dưỡng độc đoán, lạm quyền, tham nhũng làm thoái hóa Đảng và mục ruỗng Nhà nước.
Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Trong hệ tư tưởng Đức, Marx và Engels cho rằng “hình thức thương mại, bởi lực lượng sản xuất đang có quyết định ở một giai đoạn lịch sử và trở lại quyết định lực lượng sản xuất, đó là xã hội dân sự” và “xã hội dân sự bao gồm toàn bộ thương mại vật chất của các cá nhân ở một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất”. Hai ông cho rằng, xã hội dân sự tồn tại ở mọi thời đại với tư cách tổ chức xã hội trực tiếp bắt nguồn từ sản xuất và thương mại, đồng thời tạo thành nền tảng của nhà nước và mọi kiến trúc thượng tầng tinh thần khác. Các chế độ độc tài, phát xít Hitler, Mussolini thực hiện chế độ toàn trị xóa bỏ xã hội dân sự đã bị thất bại. Mô hình xô viết Stalin cũng xóa bỏ xã hội dân sự là nguyên nhân đưa tới quan liêu hóa, khủng hoảng xã hội. Tình trạng đó chúng ta phải khắc phục. Nhiều năm qua các đoàn thể quần chúng đều bị chính trị hóa, hành chính hóa, không đại diện quyền lợi cho đoàn viên, hội viên, hạn chế sáng kiến của họ, quan trọng hơn là chỉ tiêu sự góp ý thẳng thắn của họ đối với đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước. Thực hiện quyền tự do lập các hội, đoàn, các câu lạc bộ, hoạt động theo hướng ích nước lợi nhà, tương thân, tương ái, tự trang trải về tài chính, đó chẳng những đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng mà còn khôi phục xã hội dân sự, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền, làm lành mạnh kinh tế thị trường.
Trong môi trường dân chủ, thượng tôn pháp luật, đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như mọi tổ chức và cá nhân có điều kiện để phát triển lành mạnh. Đảng Cộng sản Việt Nam có một quá trình lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, khởi xướng đổi mới, nay lại mạnh mẽ tự đổi mới mình để trở thành đảng của dân tộc, không dùng quyền lực thay cho năng lực, trí tuệ. Dân chủ đưa Đảng vào lòng dân tộc. Liệu có đảng đối lập nào đưa ra cương lĩnh trái với lợi ích dân tộc mà giành được lòng dân đối với đảng Cộng sản? Chỉ có làm ngược lại, không chịu đổi mới chính trị, cố giữ thể chế độc quyền, trong khi xã hội đã chuyển sang đa nguyên về kinh tế, đa nguyên thành phần xã hội, tài nguyên tư tưởng, văn hóa thì như vậy không khác nào đặt bản trong tình thế của một cây cổ thụ đứng đơn độc trước bão tố!
Hỏi: Có nên duy trì các chỉ đạo báo chí của Ban Tư tưởng Văn hóa trung ương như hiện nay? Thực dân Pháp đã từng chấp nhận quyền tự do báo chí đối với nhân dân nước Việt Nam thuộc địa. Chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có hai lần thực hiện tự do báo chí, lần đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám cho đến toàn quốc kháng chiến, lần thứ hai sau 30 tháng tư 1975 với báo tư nhân Tin Sáng cho đến tháng 6 năm 1981. Cả hai lần ấy, báo chí tư nhân đều có những đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đổi mới chính trị, phải chăng đã đến lúc chuyển tự do báo chí tự quyền “tự do của tập thể” sang “quyền tự do của mỗi người” như Marx, Engels nói, như Nguyễn Ái Quốc đòi hỏi? Trong sách “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nguyễn Ái Quốc viết: “Tôi gọi báo tức là một tờ báo về chính trị, về kinh tế thì văn học như chúng ta đã thấy ở châu Âu và các nước châu Á khác, chứ không phải một tờ báo do chính quyền lập ra”. Tại sao chúng ta không thực hiện ước nguyện của Hồ Chí Minh từ năm 1919 về quyền tự do báo chí trong bản yêu sách gửi hội nghị Hòa Bình Versailles?
Đáp: Ngày 24 tháng 9 năm 1982, Việt Nam đã ký kết gia nhập Công ước về các quyền dân sự và chính trị. Công ước này có quy định quyền tự do ngôn luận: mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp; được tự do ngôn luận bao gồm tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi loại tin tức, ý kiến bằng các hình thức tuyên truyền miệng, viết ra, in, tự do sáng tạo các hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Công ước đòi hỏi các quốc gia thành viên cam kết không hạn chế hoặc hủy bỏ những quyền tự do tính phổ biến của nhân loại đã được quy định ở đây. Nhà nước ta sẽ phải sớm sửa đổi luật báo chí, luật lập hội, thực hiện tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội như các quốc gia dân chủ trên thế giới.
Cuối năm 1989 anh Trần Xuân Bách có bài phát biểu “Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?” Nội dung bài ấy tương tự những điều anh trả lời trên đây. Nhiều người cho rằng anh Trần Xuân Bách chưa bao giờ nói đến “đa đảng”. Thật ra chấp nhận đa nguyên chính trị tức là chấp nhận sự có mặt của các tầng lớp, các nhóm có lợi ích khác nhau, có quan điểm chính trị khác nhau, cùng tồn tại, hợp tác và đấu tranh. Chấp nhận đa nguyên chính trị tức là đã chấp nhận đa đảng sẽ diễn ra ngày sau đó.
Dịp tết 1990, vài tháng trước khi bị kỷ luật ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng, anh Trần Xuân Bách có sáng tác bài thơ sau đây.
Bài thơ khai bút 1990
Ngày xuân nhớ cụ Tú Xương,
Cố nhân chính trực, đồng hương nghĩa tình.
Lẳng lặng mà nghe tiếng nói dân.
Lấy dân làm gốc phải nghe dân.
Trí khôn thiên hạ không hề thiếu.
Chỉ sợ người ngu thích kẻ đần.
Nhà thơ Hải Như đề nghị thay chữ “mình” cho chữ “người” ở câu cuối. Anh Bách tiếp thu nhưng bảo, lấy làm tiếc vì đã phổ biến cho nhiều bạn bè.
Chiều thứ 5, ngày 22 tháng 3 năm 1990, anh Bách gọi điện bảo tôi, 7 giờ tối đến nhà anh, có chuyện rất cần biết. Cả ba anh em, Lưu Văn Hân, Phạm Văn Nhàn và tôi cùng đến. Trên lề đường trước nhà anh có nhiều người mặc thường phục đứng trên vỉa hè săm soi số xe. Anh Bách vẫn ra tận cổng đón chúng tôi. Chị Thịnh vẫn vui vẻ pha cà phê, gọt táo mời bạn bè. Anh Bách kể chuyện Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khai mạc từ ngày 12-3. Anh đã bị phê phán rất dữ dội. Anh cho rằng, mình chắc chắn sẽ bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, thậm chí có ý kiến đòi khai trừ anh ra khỏi Đảng. Tôi tỏ ý băn khoăn, chẳng lẽ lại có thể xảy ra điều tồi tệ đến mức ấy, hoàn toàn trái với tinh thần đổi mới, nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật của Đại hội 6? Anh Bách kể: “Một đồng chí trong Bộ Chính trị cho rằng, việc làm của đồng chí Trần Xuân Bách đã khiến cho đồng chí, bạn bè lo âu, còn kẻ thù thì vô cùng mừng rỡ”. Một người đã bị nhận xét tới mức đó thì làm sao có thể coi trong Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương?” Anh Bách cho biết nhận xét đó không phải là ý kiến cá biệt, quan trọng hơn, đó là quan điểm của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Chỉ có hai ủy viên bộ chính trị, Nguyễn Cơ Thạch và Võ Văn Kiệt cho rằng, từ quan điểm “lấy dân làm gốc”, anh Bách muốn công cuộc đổi mới phải “đi hai chân” để đất nước phát triển và đảng vững mạnh.
Hôm ấy, chia tay anh chị, chúng tôi buồn rười rượi, dù anh động viên: “Cho dù sắp tới sự nghiệp đổi mới có bị khó khăn hơn. Tuy nhiên cái gì thuộc về quy luật, xu thế thì nó vẫn cứ đi tới, dù có chậm”.
Ngày 27-3-1990 Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa 6, thông qua nghị quyết có những nội dung quan trọng như sau:
… Nghị quyết đã chỉ ra tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng các nước xã hội chủ nghĩa đối với nước ta, trước hết là về các mặt chính trị, tư tưởng: một số người hoài nghi chủ nghĩa xã hội, giảm lòng tin đối với Đảng và nhà nước, một số cán bộ, đảng viên tiếp nhận những tư tưởng, quan điểm sai lầm về cải tổ, cải cách của nước ngoài một cách máy móc, giáo điều; một số ít phần tử cơ hội bất mãn đang đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng, đòi dân chủ không giới hạn.
Hội nghị nhận định: đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch đang còn nước ta là một trọng điểm chống phá, ráo riết thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình bằng những thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và quân sự rất thâm độc. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa hai con đường chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa ta và địch trên phạm vi thế giới, ở nước ta và ba nước Đông Dương đang diễn ra gay gắt, quyết liệt và phức tạp.
Việc Bộ Chính trị và ban bí thư tự phê bình và Trung ương góp ý kiến phê bình Bộ Chính trị, ban bí thư được tiến hành một cách nghiêm túc, dân chủ, thẳng thắn, chân thành và thân ái, với tinh thần trách nhiệm và xây dựng, đã góp phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong trung ương.
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa 6 đã quyết định cách chức ủy viên Bộ Chính trị, bí thư trung ương, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với đồng chí Trần Xuân Bách vì đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng, gây ra nhiều hậu quả xấu.”
Sau khi anh Bách bị cách chức, bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch xin nhận anh về làm cán bộ nghiên cứu của Bộ Ngoại giao. Nhưng lúc này chính cái ghế của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng đang lung lay. Cũng như Trần Xuân Bách, Nguyễn Cơ Thạch hiểu rất rõ nguyên nhân suy sụp của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là thiếu dân chủ, vi phạm nhân quyền, trái với xu thế thời đại. Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm, về đối nội, dân chủ hóa xã hội, đối ngoại cần mau chóng quan hệ bình thường với Hoa Kỳ và thế giới dân chủ. Trong khi đó, tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và nhiều người trong Bộ Chính trị cho rằng phe xã hội chủ nghĩa suy sụp là do các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ âm mưu phá hoại. Do đó, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng phải cầu hòa với Trung Quốc. Trung Quốc dù có tư tưởng bành trướng thì cũng vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa anh em. Để lấy lòng Bắc Kinh, Bộ Chính trị đứng đầu là tổng bí thư Nguyễn Văn Linh loại bỏ Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch một cách vô nguyên tắc, không cho tham gia đoàn cấp cao đi Hội nghị Thành đô. Sau khi Nguyễn Cơ Thạch bị loại, anh Bách cũng xin nghỉ việc.
Anh Trần Xuân Bách bị kỉ luật ít lâu thì phó tổng biên tập Bùi Tín của báo Nhân Dân nhân được cử đi dự họp báo Nhân Đạo, đã trả lời phỏng vấn đài BBC về dân chủ hóa, bị báo Nhân Dân thi hành kỉ luật, và xin tị nạn chính trị tại Pháp.
Sau 20 năm nhìn lại, thực tế diễn ra trên thế giới và trong nước đã cho thấy ý kiến Trần Xuân Bách lòng hoàn toàn chính xác.
Tình hình thế giới:
Do duy trì quá lâu mô hình xô viết cho đến ngày sụp đổ đã khiến cho nhân dân các nước Nga và Đông Âu cạn niềm tin đối với các đảng Cộng sản và cánh tả. Ở liên bang Nga, suốt 20 năm qua, thời hậu Liên Xô, đảng Cộng sản, tổng bí thư G. Zyuganov chỉ nhận được tối đa khoảng 20% số phiếu trong các cuộc bầu cử. Trong khi đó, Đảng Nhân dân Campuchia thì chấp nhận “cuộc chơi” đa đảng đã bị lép vé, nhưng nhờ giương cao ngọn cờ dân tộc, nay đã giành được thế thượng phong trên chiến trường đất nước. Hiện nay, đợt sóng dân chủ lần thứ tư đang cuồn cuộn, nước Miến Điện gần sát Việt Nam đã chuyển từ quân phiệt sang dân chủ.
Sau 20 năm tái lập quan hệ đồng chí, trên cơ sở “16 chữ vàng” và “4 tốt” với Trung Quốc, ta càng ngày càng bị họ dồn ép: thành lập thành phố Tam Sa bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa; mời thầu dầu khí ngay trên vùng đặc quyền kinh tế của ta; xua hàng vạn tàu cá, tàu vũ trang vào vùng biển Trường Sa; đòi “lấy máu người Việt làm lễ tế cờ trong trận chiến Nam Sa!”
Kỷ niệm 10 năm hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), chính phủ Việt Nam tuyên bố: Việt Nam nhất quán chủ trương sẵn sàng cùng Hoa Kỳ nỗ lực đưa quan hệ hai nước Việt Mỹ lên tầm cao mới. Ngày 2 tháng 8 năm 2012 Thượng viện Hoa Kỳ thông qua nghị quyết ủng hộ vai trò ASEAN trong vấn đề biển Đông, ủng hộ tuyên bố DOC năm 2002 giữa ASEAN – Trung Quốc. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực đóng góp vòng đàm phán thứ 13 hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tình hình trong nước:
Nghị quyết trung ương 4 (khóa 11) nhận định “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”. Tham nhũng đã từ vài “con sâu” trở thành cả “bầy sâu”. Sự khiếu kiện đất đai dai dẳng bởi nạn cướp đất, đẩy nông dân tới bước phản ứng bằng bạo lực. Đội quân chủ lực của cách mạng giải phóng dân tộc đã nảy sinh cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn làm bom tự tạo chống cưỡng chế phi pháp. Một trăm hộ dân Văn Giang đương đầu với 1000 cảnh sát vũ trang. Giai cấp công nhân được mệnh danh là giai cấp lãnh đạo, có đến 30 % số người bị suy dinh dưỡng. Họ đã tổ chức hơn 5000 cuộc đình công đòi tiền lương, cải thiện bữa ăn, nhiều cuộc huy động từ 5.000 đến 10.000 người, nhưng vẫn bị coi là bất hợp pháp, vì không được sự chỉ đạo của công đoàn! Trí thức bị cấm phản biện bằng Nghị định 97 của thủ tướng. So sánh tư thế của nhà nước Việt Nam với nhà nước Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản trong cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm phạm chủ quyền, người Việt không khỏi hổ thẹn. Mỹ sẵn sàng giúp Philippines bảo vệ chủ quyền, trong khi đó đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện dân chủ, nhân quyền làm điều kiện “thế chấp”!
Nghĩ về vận nước, không khỏi chua xót nhớ Trần Xuân Bách! Nguyện vọng khoán hộ của Kim Ngọc tuy đã thành hiện thực, từng đưa Việt Nam vào hàng nước xuất khẩu lương thực lớn thứ hai thế giới. Nhưng cho đến nay, giấc mơ về quyền sở hữu ruộng cày và cuộc sống no đủ với hạt gạo do mình làm ra của người dân vẫn còn xa ngái! Bao giờ tư tưởng Trần Xuân Bách trở thành hiện thực trong cuộc sống dân tộc?
Ngày 20-5-2002 tại nhà anh Trần Xuân Bách ở (Trung Tự) Hà Nội, nhà thơ Hải Như đã viết bài thơ tặng anh:
Trần Xuân Bách
Chắc chắn lịch sử sau này sẽ dành một trang về anh,
– khách quan phán xử
Tôi chỉ xin lưu ý nhỏ mai đời:
Cái Trần Xuân Bách mất rõ rồi, nhưng còn cái được,
Tuyệt vời sao!
Chia sẻ tiếng sét giáng xuống đời anh,
Có một người đàn bà nguyện làm ngọn thu lôi vượt qua giông bão.
(Chúng ta từng sống một thời vô luân để hai chữ “liên quan” đè lên cơm áo).
Trần Xuân Bách. Anh là nạn nhân và cũng là tác giả tội ác.
Đúng không nào?
Trên chục năm dài lê thê con chim bằng gậm nhấm nỗi cô đơn
Tâm hồn vẫn sáng trong không rũ buồn vì khép cánh…
Câu “chúng ta từng sống một thời vô luân để hai chữ ‘liên quan’ đè lên cơm áo” tôi cảm thấy như chỉ trích riêng mình!
Sau khi anh Trần Xuân Bách bị kỷ luật, tôi còn tiếp tục làm Tổng biên tập báo Lao Động ba năm nữa, nhưng không đến thăm anh một lần nào! Tôi tự bào chữa: vì thời gian này tôi phải liên tục đối phó với quá nhiều áp lực, chống đỡ cho tờ báo. Vì tôi đặt tòa soạn báo Lao Động ở Sài Gòn; gia đình, vợ con tôi cũng ở Sài Gòn, cho nên thời gian tôi có mặt ở Hà Nội rất eo hẹp. Nhưng mọi lý do vẫn không đủ để cho tôi có thể từ chối cho mình một chữ “Hèn”! Anh Hải Như an ủi: “Mình biết, rất nhiều anh nhờ anh Bách mà leo lên ‘quyền cao chức trọng’, nhưng sau khi anh bị kỷ luật, suốt bao năm có anh nào dám đến thăm ông thầy cũ của họ đâu!”
Cũng đừng trách họ hèn, bởi chúng ta phải sống ‘một thời vô luân’ mà!”
Ngày anh Bách qua đời (1-1-2006), nhà thơ Hải Như viết bài “Vĩnh biệt người bạn cùng quê”, có câu này:
“Ngày anh đi xa, trên báo Nhân Dân, bạn đọc thấy những gì thuộc về anh đều được trả lại”
Tôi nghĩ, Trần Xuân Bách không hiểu rõ cụ Hồ bằng Nguyễn Văn Linh. Ai thân cận với cụ Hồ hơn Vũ Đình Huỳnh? Vậy mà Vũ Đình Huỳnh không đòi hỏi “đa nguyên” như Trần Xuân Bách, vậy mà vẫn bị đi tù! Nhà thơ Hải Như cũng đã không chính xác khi vội mừng “những gì thuộc về anh đều được trả lại”! Cho dù điếu văn có nhắc lại tất cả công lao của Trần Xuân Bách, cho dù đã kể ra đủ các loại huân chương mà anh đã được trao tặng, cho dù cuối cùng, anh đã được nằm trong nghĩa trang Mai Dịch, nơi chỉ dành riêng cho các vị đại công thần của chế độ nhưng tư tưởng cao cả mà Trần Xuân Bách hằng tâm nguyện và dám hiến mình, đâu đã được trả lại?!