Sunday 22 September 2013

Đặng Thai Mai

Đặng Thai Mai, theo Nguyễn Văn Hoàn, blog Tìm hiểu từ nguyên đăng lại:

Đặng Thai Mai - Hiệu trưởng đầu tiên của ĐH Sư phạm Hà Nội (Nguyễn Văn Hoàn)


Đặng Thai Mai - Hiệu trưởng đầu tiên của ĐH Sư phạm Hà Nội

Trong cuộc đời hoạt động của mình, Giáo sư Đặng Thai Mai đã trải qua nhiều lĩnh vực hoạt động, nhưng công việc ông làm lâu hơn cả là giáo dục.


Tượng chân dung GS Đặng Thai Mai tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Giáo sư Đặng Thai Mai sinh ngày 24/12/1902 tại làng Lương Điền (nay thuộc xã Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xuất thân từ một gia đình yêu nước, Đặng Thai Mai đã sớm trải qua thử thách khắc nghiệt của số phận: mới lên 6 tuổi đã phải theo bà nội và mẹ xuống trại giam Hà Tĩnh thăm bố; cái trại giam tồi tàn này không cách xa bao nhiêu dinh Đốc học quen thuộc mà trước đó không lâu cậu đã sống với bố là Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, quyền Đốc học Hà Tĩnh. Nhân việc đàn áp phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (1908), chính quyền thực dân Pháp bắt Đặng Nguyên Cẩn (lúc đó đang làm Đốc học tỉnh Bình Thuận) giải ra Hà Tĩnh, kết án tù chung thân về tội “mưu phản bằng cách truyền bá tân học”.

Năm Đặng Thai Mai 12 tuổi thì ông nội đã 75 tuổi, vì tội ủng hộ Việt Nam Quang phục hội, phải đi tù 3 năm, trở về nhà được 10 ngày thì mất. Đó là cử nhân Đặng Thai Giai, khi đang làm Tri huyện Yên Định thì các quan tỉnh Thanh Hóa mở cửa thành quy hàng quân Pháp, ông liền bỏ quan về quê.

Trong cảnh chia ly nhà tan nước mất đó, may còn có bà nội, một người phụ nữ kiên cường, ra sức chèo chống. Đối với Đặng Thai Mai, bà nội vừa là mẹ vừa là thầy học. Bà đã tổ chức lớp học tại nhà, tìm thầy dạy cho cháu học theo chương trình giáo dục duy tân của Đông Kinh nghĩa thục, đặc biệt, bà luôn giáo dục cháu phải can đảm, cứng cỏi trong cuộc sống. Chính bà đã nêu gương cho cháu việc điềm tĩnh “đấu lý” với “các vị khách không mời mà đến” như các hào lý, bang biện, Tây đồn… thường đến nhà tra vấn, hoạnh họe, dọa dẫm.

Chủ tịch Viện Khoa học Trung Quốc Quách Mạt Nhược tiếp GS Đặng Thai Mai
tại Đại lễ đường Nhân dân, Bắc Kinh, ngày 24/6/1963.

Hoàn cảnh đặc biệt đó của gia đình, cộng với truyền thống hiếu học của quê hương Nghệ - Tĩnh, lại có tư chất thông minh và trí nhớ phi thường, Đặng Thai Mai ngay từ tuổi thiếu niên đã tỏ ra xuất sắc trong học tập. Sau khi đã đọc hết các sách quốc ngữ của thư viện gia đình khá phong phú mà ông nội đặt tên là “Tam thai sơn phòng tàng thư”, Đặng Thai Mai mon men đến tủ sách chữ Hán và ngạc nhiên tự nhận thấy sau 5 năm dùi mài Luận ngữ, Mạnh Tử… đã có thể đọc trót lọt các truyện Trung Quốc như Tam quốc, Thủy hử, Thuyết Đường… rồi lân la đọc đến tân thư của các tên tuổi mới lạ rất nổi tiếng ở nước ta thời đó như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu…

Từ năm 1915 đến năm 1928, Đặng Thai Mai từ giã lớp học tại gia ở quê nhà hẻo lánh để lần lượt vào học các trường công: Tiểu học Vinh, Cao đẳng Tiểu học Vinh, Cao đẳng Sư phạm Đông Dương Hà Nội. Một chân trời mới dần dần mở rộng trước mắt Đặng Thai Mai: chân trời mới về kiến thức văn hóa và về kinh nghiệm trường đời. May mắn là ông đã gặp được những thầy giáo uyên bác, mô phạm như Lê Thước, Lê Ấm, Lâm Quang Thọ, Bùi Kỷ…, truyền thụ cho ông lòng yêu quý văn chương dân tộc và say mê văn học phương Tây, trước hết là văn học Pháp.

Về sau, khi đã trưởng thành, ông thường phê phán nhà trường Pháp - Việt chỉ nhằm đào tạo những kẻ thừa hành thụ động nhưng ông vẫn biểu lộ sự hàm ơn sâu sắc đối với một số giáo sư người Pháp ở trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội như Giáo sư Milon, Giáo sư Houlié đã dạy cho ông phương pháp phân tích một tác phẩm văn học và khơi gợi cho ông những hướng tìm tòi, nghiên cứu mới. Ông cũng gặp được nhiều bạn bè tốt như Nguyễn Sĩ Sách, Trần Phú, Trần Mộng Bạch, Tôn Quang Phiệt, Hồ Tùng Mậu, Đào Duy Anh, Phạm Thiều, Ca Văn Thỉnh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Ông cũng được tiếp xúc với một vài nhà cách mạng tiền bối thuộc hàng cha chú như Ngô Đức Kế, Lê Văn Huân.

Những năm ông theo học Cao đẳng Sư phạm (1925-1928) thì Hà Nội đang sôi nổi các phong trào đấu tranh đòi ân xá Phan Bội Châu, để tang Phan Chu Trinh. Ông đã tham gia thành lập hội Phục Việt, sau đổi là Tân Việt cách mạng. Tân Việt tan vỡ, ông bị kết án một năm tù treo.

Một học sinh, sau này là GS Trần Đình Gián, kể lại: “Thầy Mai mãi mãi để lại trong tôi một kỷ niệm sâu sắc. Một buổi sáng ở trường Quốc học Huế, thầy giảng bài thì mật thám ập đến bắt. Thầy chỉ gật đầu chào chúng tôi, rồi vẫn với phong thái nghiêm nghị thường ngày, thầy bước lên xe của mật thám”.

Từ phải qua: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Cao Xuân Huy.

Một học sinh khác, Võ (Vũ_ Thuần Nho, sau này trở thành Thứ trưởng Bộ Giáo dục, nhớ lại: “Năm học 1930-1931, tôi học môn Việt văn với thầy Mai của trường Quốc học Huế. Suốt đời tôi không bao giờ quên bài luận của thầy. Đề tài về câu ca dao:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
.

Anh em chúng tôi trong lớp, những người đã vào Hội học sinh đỏ, đều thấu hiểu thầy muốn gợi lên cho mình suy nghĩ về đồng bào, lòng yêu nước. Nhưng bài luận ấy đã không được thầy chấm và trả lại. Vì chúng tôi bị bắt.

Bỗng một buổi sáng, đứng sau song sắt phòng giam nhà tù Phủ Doãn (Huế), nhìn ra sân, tôi thấy thầy đang đứng ở đó. Thầy cũng bị bắt sau chúng tôi một tuần lễ. Chúng tôi thương thầy bị đày, qua một số thường phạm, chúng tôi nhờ chuyển lời hỏi thăm sức khoẻ của thầy và bày tỏ nguyện vọng sẽ được tiếp tục học với thầy. Chỉ khoảng 15-20 ngày sau, chúng tôi nhận được một gói tài liệu buộc thật chặt: một tập thơ Victor Hugo của Nhà xuất bản Hachette. Chúng tôi đọc thuộc và học thuộc lòng bài này đến bài khác. Nhớ và đọc mãi câu: “Ceux qui vivent ce sont ceux qui luttent”. (Tạm dịch: Những người sống là những người đấu tranh)

Năm 1928, Đặng Thai Mai tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, được bổ dụng làm giáo sư một trường trung học có tiếng hồi đó: trường Quốc học Huế.

Nhưng rồi ở quê hương, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ, thực dân Pháp khủng bố trắng (trợn), ném bom xuống cả các đoàn biểu tình của nông dân. Ở Huế, Đặng Thai Mai phụ trách công tác Cứu tế đỏ, liền bị bắt.

Đặng Thai Mai phải ngồi tù một năm và bị cách chức giáo sư. Năm 1932, ông ra Hà Nội dạy học ở trường tư thục Gia Long. Năm 1935, ông cùng Phan Thanh, Hoàng Minh Giám thành lập trường Thăng Long. Trường tư thục nổi tiếng này đã là cái nôi nhen nhóm lòng yêu nước trong học sinh và chuẩn bị cán bộ tương lai cho đất nước Việt Nam độc lập.

Năm 1937, sau khi Mặt trận Bình dân thắng lợi ở Pháp thì ở Việt Nam Mặt trận Dân chủ Đông Dương thành lập. Nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng thoát khỏi nhà tù đế quốc ra hoạt động công khai.

Đặng Thai Mai khổ công học tập từ nhỏ nên đã có một căn bản kiến thức vững chắc, nhưng trong thâm tâm sâu kín ông vẫn ấp ủ một tâm nguyện: Nếu chưa có tự do tư tưởng thì chưa viết lách gì! Thế rồi, gần 40 tuổi, ông mới bắt đầu cầm bút; những bài báo đầu tay được viết bằng tiếng Pháp, in trên các báo của Đảng Cộng sản Đông Dương, xuất bản ở Hà Nội, như Lao Động (Le Travail), Tập Hợp (Rassemblement), Tiến Lên (En Avant), Tiếng Nói Chúng Ta (Notre Voix).

Năm 1938, ông tham gia thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ, hoạt động bên cạnh những nhân sĩ nổi tiếng như Vương Kiêm Toàn, học giả Nguyễn Văn Tố, cộng tác viên khoa học của Học viện Viễn Đông bác cổ Pháp và Phó bảng Bùi Kỷ, thầy học của ông ở Cao đẳng Sư phạm Hà Nội.

GS Đặng Thai Mai (phải) và GS Ngữ học Xécđúcsenko (Liên Xô) tại Hà Nội.

Năm 1939, một người bạn thân của ông là Phan Thanh, đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương ứng cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ, chẳng may đột ngột từ trần, Đảng liền giới thiệu Đặng Thai Mai thay thế, mặc dầu ông chưa phải là đảng viên; phải đến tháng 9/1946 ông mới được kết nạp vào Đảng và người giới thiệu là người bạn cùng quê - Hồ Tùng Mậu.

Nhân dịp này, tuần báo Tiếng Nói Chúng Ta của Đảng Cộng sản Đông Dương số 24, ngày 28/7/1939 đã giới thiệu ông như sau: “Đặng Thai Mai thích nhắc lại câu nói của Thomas Mann: Tôi sinh ra để cho sự thanh nhàn hơn là sự tử vì đạo. Không phải ông dám so sánh mình với tác giả cuốn Cảnh báo Châu Âu mà sự vĩ đại vượt quá mọi bộ óc lớn nhất của thời đại chúng ta, nhưng có thể, dù đã tính đến sự chênh lệch về tỉ lệ, ông vẫn thấy giữa số phận của Thomas Mann và của mình ít nhiều giống nhau, ông sinh ra là để dành cho việc học tập, cho học trò và con cái nhưng tình thế đất nước đã đẩy ông vào đấu trường chính trị”… “Con người có vẻ ngoài hiền lành, mảnh khảnh đó lại không biết đến sự sợ hãi, ít nhất là đối với ông. Với điều đó, ông thật đúng là người con của xứ Nghệ, nhưng may mắn sao ông lại được điều hòa bởi chủ nghĩa nhân văn phương Tây”.
Những năm 1944-1945, Đặng Thai Mai bị đau nặng, phải nghỉ dạy học và dưỡng bệnh ở Sầm Sơn (Thanh Hóa). Dựa vào tinh thần của Đề cương văn hóa (1943) của Đảng, ông đã viết cuốn Văn học khái luận, xuất bản năm 1944. Đây là cuốn sách lý luận văn học đầu tiên ở nước ta đề cập đến một số vấn đề cơ bản của văn học nghệ thuật theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin như quan hệ giữa chính trị và văn học, giữa nội dung và hình thức, điển hình và cá tính, giữa tính dân tộc và tính quốc tế của văn học…

Cũng trong thời gian này, ông đã dịch các tác phẩm của Lỗ Tấn, Tào Ngu và giới thiệu văn học hiện đại của Trung Quốc vào nước ta. Từ nhỏ, Đặng Thai Mai đã làm quen với văn học Trung Quốc nhưng đó là văn học Trung Quốc của Hán phú, Đường thi. Lần đầu tiên nghe đến những tên tuổi mới như Trần Độc Tú, Mao Thuẫn, Quách Mạt Nhược, Lỗ Tấn…

Đặng Thai Mai cảm thấy một lỗ hổng rất lớn trong kiến thức của mình về văn học Trung Quốc. Đặng Thai Mai cũng học chữ Hán của Tứ Thư, Ngũ Kinh; để có thể dịch được những câu văn châm biếm, thâm trầm của Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai đã phải học bạch thoại với một nghệ sĩ Trung Quốc “chạy loạn” sang nước ta.

Với chủ trương kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc, kiến quốc cần có nhân tài, ngày 10/10/1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh số 45 thành lập một Ban Đại học mới, đó là Ban Đại học Văn khoa bên cạnh các ban Y khoa, Khoa học, Chính trị Xã hội và Mỹ thuật. Nhiệm vụ của ban này nhằm đào tạo giáo sư bậc trung học và chuyên viên khảo cứu về khoa học xã hội - nhân văn như Triết lý, Xã hội, Văn chương, Sử ký, Địa dư. Nghị định ngày 7/11/1945 của Bộ Quốc gia Giáo dục đã cử Đặng Thai Mai đang giữ chức Tổng thanh tra học vụ bậc trung học kiêm chức Giám đốc Ban Văn khoa trường đại học(1).

Cũng trong thời gian này, Đặng Thai Mai được cử vào Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chủ tịch làm Chủ tịch và trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 ông đã trúng cử đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp thứ nhất ngày 2/3/1946 của Quốc hội khóa I (1946-1960), Hồ Chủ tịch đã tiến cử ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục của Chính phủ liên hiệp kháng chiến với lời giới thiệu như sau: Đặng Thai Mai là “một người đã lâu năm hoạt động trong công cuộc giáo dục quốc dân và là người mà quốc dân có thể tin rằng, nếu đem việc giáo dục giao cho để gánh vác thì người ấy sẽ làm hết nhiệm vụ”(2).

GS Đặng Thai Mai (trái) và GS Trần Văn Giàu.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đặng Thai Mai được cử làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Thanh Hóa (1947-1948), Giáo sư Đại học Văn khoa Liên khu IV (1950), Giám đốc Sở Giáo dục và Giám đốc trường Dự bị Đại học và Sư phạm Cao cấp Liên khu IV (1952-1953).

Năm 1954, sau khi đi dưỡng bệnh ở Nam Ninh (Trung Quốc) về, Đặng Thai Mai được cử làm Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Văn khoa (1954-1956), trụ sở ở phố Lê Thánh Tông, Hà Nội. Năm 1956, với việc thành lập Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm, Đặng Thai Mai được cử làm Chủ nhiệm khoa Văn chung cho cả hai trường Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm cho đến năm 1959 thì chuyển sang làm Viện trưởng Viện Văn học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam và Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.

Trong cuộc đời hoạt động của mình, Đặng Thai Mai đã trải qua nhiều lĩnh vực hoạt động, nhưng công việc ông làm lâu hơn cả là giáo dục. Ông đã dạy từ trường công qua trường tư dưới thời Pháp thuộc, sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chuyên dạy về văn học ở cấp đại học, nhưng ở cương vị nào và dù có thời gian sức khỏe không được tốt, bao giờ ông cũng tận tâm tận lực làm trọn thiên chức một thầy giáo. Trong Điếu văn vĩnh biệt ông, nhà thơ Huy Cận nói: Đặng Thai Mai dạy học với tấm lòng say mê của “một nhà truyền giáo”.

Đặng Thai Mai rất say mê văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học Trung Quốc, văn học Pháp, văn hóa phục hưng, về Shakespeare, Don Quichotte, Lỗ Tấn… nhưng có thể nói, tâm huyết của ông vẫn để ở văn học Việt Nam. Ông nói với học sinh: Tôi học văn học nước ngoài để trở về với văn học Việt Nam, để hiểu đúng văn học dân tộc ta.

Ông đã nghiên cứu văn học Lý - Trần, Nguyễn Trãi, Chinh phụ ngâm, Nguyễn Đình Chiểu, Ngục trung nhật ký, thơ Tố Hữu và đặc biệt có thể nói ông đã gửi vào hai công trình nghiên cứu Văn thơ Phan Bội Châu vàVăn thơ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900-1925) không chỉ là trí tuệ mà cả trái tim của mình, không chỉ là những kỷ niệm đau buồn mà cả niềm tin và hy vọng liên quan đến một giai đoạn bi tráng của quê hương, đất nước và cả gia đình ông.

Trong phạm vi nghiên cứu, viết lách, ông cũng rất “khó tính” với bản thân mình, cũng như luôn luôn có yêu cầu cao và nghiêm khắc với học trò. Ông thật xứng đáng với các phần thưởng cao quý mang tên người mà suốt đời ông ngưỡng mộ: Huân chương Hồ Chí Minh và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội - nhân văn.
------------------------
Chú thích:
(1) Việt Nam Dân quốc Công báo số 4, ngày 20/10/1945.
(2) Việt Nam Dân quốc Công báo số 9, ngày 17/11/1945.
Theo Nguyễn Văn Hoàn
Tạp chí Hồn Việt

Phan Ngọc (2)

Bài của Nguyễn Hòa, theo blog Tìm hiểu từ nguyên.

HỌC GIẢ PHAN NGỌC Nhà “bách khoa” cuối cùng của một thế hệ (Nguyên Hòa)


Học giả Phan Ngọc




NGUYỄN HOÀ

NVTPHCM- Đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, tôi đã biết tới tiếng tăm của Phan Ngọc qua thầy cô và bạn bè ở Khoa Văn hoá quần chúng, Đại học Văn hoá Hà Nội - nơi tôi được quân đội cử theo học. Chỉ với 4 tiết giảng về hằng số văn hoá Việt Nam, ông đã làm cho tôi ngỡ ngàng, đúng là “danh bất hư truyền”, và hình như từ đó, 4 tiết bài giảng của ông cùng các bài giảng của GS Trần Đình Hượu, PGS Từ Chi, học giả Đoàn Văn Chúc... đã nhen nhóm trong tôi một mối lương duyên đối với khoa học - điều mà ngày đeo ba lô từ biên giới phía Bắc trở về, tôi vẫn chưa hình dung ra. Năm 1987, sau khi công bố trên báo Văn Nghệ một bài viết để bảo vệ một số luận điểm trong công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều của Phan Ngọc, phải đến 5 năm sau tôi mới dám tìm đến nhà ông, phần vì tự thấy vốn liếng chữ nghĩa của mình còn quá mỏng (mảnh), phần vì e ngại sẽ bị hiểu như là muốn cầu thân (!). Cũng từ đó tôi gắn bó với ông, không chỉ như với một người thấy, mà còn như với một người cha. Song một “thằng học trò - con trai” như tôi kể ra cũng có phần ương bướng, vì có lần ông hỏi: “Lâu nay tôi coi anh như học trò, như con tôi, thế anh học được cái gì ở tôi?”, tôi trả lời: “Con chỉ học Thầy mỗi cái phương pháp thôi”, ông hỏi tiếp: “Tại sao chỉ có phương pháp?”, tôi cười hì hì mà rằng: “Con coi phương pháp học được ở Thầy là cái xương sống, còn tri thức con phải tích luỹ là phần thịt da. Cơ thể có xương sống mà thịt da bủng beo thì vô nghĩa”. Nghe tôi nói vậy, ông cười.

Sinh năm 1925, trong một gia đình giàu truyền thống Nho học, cha ông là cụ Phan Võ, một nhà Hán học nổi tiếng từng làm Thượng thư dưới triều Nguyễn, thời kỳ đầu Phan Ngọc học chữ Hán chỉ để khỏi phật ý người thân, còn hoạn lộ của ông sẽ là thênh thang nếu ông đi theo con đường đã được gia đình hoạch định sẵn, đó là vào trường Luật. Thế nhưng, cậu tú Phan Ngọc, người học giỏi nổi tiếng nhất nhì ở đất Nghệ An hồi trước năm 1945, lại nuôi một chí hướng khác, ông vào trường Y và sau đó nhập ngũ làm lính ở sư đoàn 304, rồi về làm việc từ Bộ Văn hoá đến Đại học Tổng hợp (nay là Trường đại học KHXHNV Hà Nội), sau đó là Viện Đông Nam Á (thuộc Viện Khoa học Xã hội - Nhân văn Quốc gia) cho tới khi nghỉ hưu. Về các công trình khoa học, xin sẽ đề cập sau, song về ngoại ngữ thì có thể nói rằng sau Trương Vĩnh Ký, thì PGS Phan Ngọc là một người hiếm hoi ở Việt Nam có một vốn liếng ngoại ngữ không dễ mấy ai có được. Từ khả năng tự học đáng kinh ngạc, dưới bút danh Phan Ngọc hoặc Nhữ Thành (Thanh), ông đã dịch Mỹ học Hegel từ nguyên bản tiếng Đức; Spartacustừ nguyên bản tiếng Ý; Chiến tranh và hoà bình từ nguyên bản tiếng Nga; Sử ký (Tư Mã Thiên), Chuyện làng NhoHàn Phi Tử từ nguyên bản chữ Hán; David Coperfield và Trần trụi giữa bầy sói từ nguyên bản tiếng Anh... Cách đây vài năm, ông đã xuất bản một cuốnTừ điển Anh-Việt với hơn 100.000 mục từ và đang soạn tiếp Từ điển Việt - Anh với số mục từ tương đương. Dường như có cái gì đó như là năng khiếu, bẩm sinh trong việc học tiếng nước ngoài của Phan Ngọc, điều này được ông giải thích một cách giản dị: “Tôi đã tìm ra cái mẹo của cách học”. Tuy nhiên, điều đáng nói là không giống như nhiều người trong chúng ta đang học ngoại ngữ như đi tìm một sinh kế, PGS Phan Ngọc đã vượt qua giới hạn dùng ngôn ngữ như công cụ môi giới văn hoá mà ông dùng ngôn ngữ để trực tiếp khảo sát văn hoá các dân tộc, các khoa học xã hội mũi nhọn đang phát triển trên thế giới theo cả chiều rộng cùng chiều sâu. Theo tôi, chức danh Phó Giáo sư ngành Ngôn ngữ học chưa phản ánh đầy đủ năng lực thực tế của Phan Ngọc. Đọc các công trình, nghe các bài giảng và qua tiếp xúc, có thể nhận thấy ông còn là nhà triết học, nhà Hán học, nhà mỹ học, nhà dân tộc học, nhà nghiên cứu văn học... Những lĩnh vực ông nghiên cứu không dừng lại ở các hiểu biết thông thường mà luôn nhất quán theo phương châm “cách vật, trí tri” (biết đến tận cùng sự vật, biết đến tận cùng sự biết). Theo tôi, một số trí thức lớn cùng thời với ông và được lưu danh tên tuổi ở Việt Nam đều có xu hướng như vậy, sự uyên bác của họ như mang dáng dấp của những nhà “bách khoa”. Phải chăng sau khi tiếp xúc với văn hoá - văn minh phương Tây, họ không còn bằng lòng với “bể học” phương Đông, mà họ muốn tìm hiểu kỹ lưỡng về cái thế giới tri thức rộng lớn và khác lạ mới mở ra trước mắt cộng đồng? Và phải chăng đối với họ, vấn đề không chỉ là phương pháp khoa học, là phương thức tư duy kiểu mới... mà còn là sự khám phá nền tảng vật chất - tinh thần đã khai sinh ra các sản phẩm đó, vì thế mà phẩm chất khoa học và đòi hỏi về tính “bách khoa” trở nên cần thiết, để rồi sau khi nắm vững hệ thống tri thức ấy, họ mới chuyên tâm đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt của mình? Thời gian trôi đi, thế hệ trí thức như Phan Ngọc vơi mỏng dần, có lẽ chỉ còn lại mình ông, người mà cốt cách “ông đồ” và tri thức hiện đại đã phối kết với nhau như là hiện thân của sự nghiệp khoa học ông đã và đang theo đuổi để chứng minh người Việt Nam với bản sắc văn hoá của mình hoàn toàn có đủ khả năng hội nhập, đuổi kịp và đứng vững trong nền văn minh công nghiệp, văn minh tin học.

“Mục đích của đời tôi là chỉ tìm phương pháp làm việc có lợi ích cho nhân dân nước tôi”, năm 1993 Phan Ngọc đã viết như vậy trên tạp chí Văn Học, và quả thật là ông đã dành tất cả tâm sức cho mục đích. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, chiến tranh khốc liệt trên cả hai miền, vậy mà không mấy ai biết trên cái gác xép chặt chội ở số nhà 57, phố Bùi Thị Xuân, Hà Nội lại có vị học giả đang cặm cụi, nghiền ngẫm suy tư để trả lời câu hỏi: sau chiến tranh, nước Việt Nam phải phát triển văn hoá như thế nào trong một thế giới hiện đại? 30 năm sau, câu trả lời ông tìm ra từ ngày ấy mới được công bố; vì theo ông công cuộc đổi mới khởi đầu từ Đại hội Đảng VI cho ông những điều kiện cần thiết. Nhìn vào danh mục các vấn đề nghiên cứu của PGS Phan Ngọc, hắn là sẽ có người nghi ngờ chất lượng khoa học của chúng nếu không tìm hiểu cơ chế làm việc của ông. PGS Phan Ngọc tự đặt ra yêu cầu rất nghiêm ngặt rằng bản thân phải đạt tới một sự thức nhận về đối tượng và về phương pháp làm việc. Ông cho rằng: “Nếu không thực hiện được sự thức nhận ấy, dù người nghiên cứu có tài giỏi, uyên bác đến đâu, anh ta có làm việc nghiêm túc, công phu đến đâu, công trình của anh ta vẫn cứ thiếu chính xác”. Từ sự thức nhận, ông nghiên cứu văn hóa, lĩnh vực cực kỳ đa dạng với phương thức tiếp cận đa ngành, liên ngành và luôn luôn cố gắng nắm bắt một cách cập nhật tri thức về những lĩnh vực khác nhau của văn hóa. Các tri thức địa - văn hoá, lịch sử học, ngôn ngữ học, khảo cổ học, nhân chủng học... được ông vận dụng một cách hệ thống, phù hợp và hiệu quả. Cá tính sáng tạo đầy bản lĩnh của ông được bảo đảm bằng một trí tuệ uyên bác, một phương pháp làm việc nghiêm túc, lập luận chặt chẽ, kết hợp uyển chuyển, linh hoạt giữa lý luận và thực tiễn, giữa lý trí và trái tim mỹ cảm, giữa quan điểm Mác-xít và phẩm cách một nhà Nho. Tuy nhiều năm không trực tiếp công tác tại một trường đại học, song với việc tham gia giảng dạy và các công trình nghiên cứu của ông đã có ảnh hưởng trong nhiều thế hệ nhà khoa học và các sinh viên. Về phần mình tôi thấy, từ thực tế lịch sử phát triển khoa học xã hội - nhân văn ở Việt Nam, tình huống có một nhà khoa học đã xây dựng được một lý thuyết nghiên cứu riêng, xác lập một hướng nghiên cứu riêng, có luận điểm riêng… và sau họ là sự hình thành những thế hệ học trò “nối nghiệp” là rất hiếm hoi. Có lẽ cả thế kỷ XX chỉ có thể kể ra tên tuổi của các học giả như Cao Xuân Huy, Trần Đình Hượu, Từ Chi… hiện tại dường như chỉ còn một vài người như Phan Ngọc, Nguyễn Tài Cẩn… và cần lưu ý rằng, các công trình của họ chủ yếu ra đời vào thời điểm mà khái niệm “đầu tư” còn hết sức xa lạ! Hiện tượng đó dường như là kết quả của thói quen tiếp nhận và ứng dụng hình thành đã lâu đời (ít nhất cũng từ ngày tiếp xúc với Nho giáo và đôi khi, còn là sự tiếp nhận hời hợt và ứng dụng cẩu thả!). Đến lượt các thế hệ hậu sinh, dù có muốn thì cuộc mưu sinh, và cả sự chắp vá - manh mún - thực dụng nữa, đã không giúp hình thành nên một bản lĩnh khoa học để mỗi người dám dấn thân và hết mình. Trong hoàn cảnh đó, những con người như PGS Phan Ngọc thật sự là tấm gương để những người làm khoa học soi vào và tự răn mình.       

Trong các công trình nghiên cứu của ông, PGS Phan Ngọc sử dụng thao tác luận (operationalist - một phương pháp nghiên cứu ở Việt Nam ít người biết và sử dụng) để làm việc và ông kiên trì với công cụ đó một cách nhất quán. Con người thức nhận (prise de conscience) Phan Ngọc không tiếp cận sự vật, hiện tượng theo lối miêu tả, ông tiếp cận từ cách đặt vấn đề: Tại sao có hiện tượng ấy? Tại sao cái hiện tượng ấy có thể tồn tại và diễn biến qua lịch sử? Nói cách khác là ông đi tìm lý do tồn tại của sự vật, hiện tượng. Về thao tác, ông thường quy hiện tượng ra thành một chùm quan hệ rồi tìm trong đó quan hệ nào có thể trực tiếp tác động để qua đó góp phần đổi mới cuộc sống. Nghiên cứu Nho giáo, ông đi tìm cái bất biến trong cái khả biến và từ chùm các quan hệ nội tại của Nho giáo, Phan Ngọc rút ra kết luận: quan hệ giữa Khổng Tử và học thuyết chân truyền của ông mới thật sự là quan hệ cơ bản nhất của Nho giáo; còn các Nho gia hậu sinh đã làm nên Hán nho, Tống nho, Minh nho... đã không còn giữ được Khổng giáo chân truyền, nói cách khác, luận thuyết của các Nho gia hậu sinh là cái khả biến nảy sinh từ cái bất biến của Khổng Tử. Nhận xét về ý nghĩa xã hội của Nho giáo nói chung, PGS Phan Ngọc viết: “Đạo Khổng tôn thờ đẳng cấp, nó phục vụ một xã hội chia thành những đẳng cấp khác nhau. Nó không phải là một chủ nghĩa nhân đạo dù cho bên ngoài nó nói toàn là nhân nghĩa, đạo lý. Nó không chấp nhận sự bình đẳng giữa cá nhân với cá nhân”. Từ nhận xét ấy ông cho rằng: “Muốn đổi mới một xã hội Khổng giáo, người ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một xã hội bình đẳng, không dựa trên một thứ bậc có sẵn, mà phải dựa trên từng cá nhân với tư cách người lao động, trên một pháp luật bảo đảm quyền lao động và bắt buộc phải lao động, trên sự xoá bỏ mọi đặc quyền khác chấp nhận sự bình đẳng của cá nhân trước pháp luật”.

Nhìn nhận lịch sử - văn hoá trong tính liên tục của nó, Phan Ngọc chứng minh quá trình tiếp thu văn hoá Hán của nước Việt Nam sau thế kỷ X là một kiểu lựa chọn đúng, vì có như thế người Việt Nam mới có thể xây dựng được sự thống nhất chính trị - văn hoá sao cho có thể đủ sức đương đầu với các thế lực phong kiến phương Bắc. Ông luận chứng bản sắc văn hóa dân tộc là một kiểu lựa chọn từ quan hệ qua lại giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại, và chính sự lựa chọn này đã làm ra cái riêng, cái bản sắc của văn hoá mỗi cộng đồng. Để chứng minh Nho giáo ở Việt Nam mang chứa nhiều đặc điểm khác biệt so với Nho giáo Trung Hoa, ông đưa ra khái niệm “độ khúc xạ trong giao lưu văn hóa” - khái niệm khúc xạ hiện đã và đang được sử dụng khá phổ biến trong giới nghiên cứu văn hoá, có lẽ bởi nó vừa chuyển tải những nội hàm lý luận - thực tiễn có tính khoa học, vừa đảm bảo tính hữu lý khi người nghiên cứu cần phải giải mã một sự vật - hiện tượng văn hoá đã nảy sinh như là sản phẩm tất yếu của quá trình tiếp biến giữa các quan hệ “nội sinh” và “ngoại sinh” có tính bản chất… Là người nghiên cứu cẩn trọng và nghiêm túc, Phan Ngọc luôn ý thức về tính chính xác của các khái niệm khoa học, và khi chưa thoả mãn với các khái niệm đang tồn tại, ông chủ động xây dựng các khái niệm mới đồng thời chú ý giới thuyết về chúng sao cho vừa có thể phản ánh tốt nhất về đối tượng và tương ứng với trình độ nhận thức của thời đại, vừa giúp người đọc hiểu cặn kẽ về cách thức tiếp cận của tác giả. Có thể kể ra các khái niệm như: vượt gộp được ông giới thuyết: “Tôi dùng chữ “vượt gộp” để dịch khái niệm Aufheben của Đức hay dépassement của Pháp. Vượt gộp có nghĩa là tiếp thu được cái mới nhưng đổi mới được nó trên cơ sở một cái cũ cũng đã được đổi mới cho thích hợp với hoàn cảnh mới. Nó có nghĩa là bảo vệ được cả cái cũ lẫn cái mới sao cho thích hợp với sự đổi mới cần phải tiến hành. Như vậy vượt gộp không phải là nhắm mắt chạy theo cái mới, vứt bỏ cái cũ, cũng không phải là khư khư giữ lấy cái cũ, từ bỏ cái mới”; về thức nhận, Phan Ngọc viết: “Tôi tự nhận là người làm việc thức nhận (prise de conscience), tức là suy nghĩ về các nguyên nhân dẫn tới sự suy nghĩ”... Theo dõi sinh hoạt khoa học xã hội - nhân văn ở Việt Nam hàng chục năm nay, trong phạm vi khảo sát của mình, tôi nhận thấy các nhà khoa học có phong cách làm việc như PGS Phan Ngọc thật sự là không có nhiều. 

(Biên độ) Phổ các vấn đề nghiên cứu của PGS Phan Ngọc rất rộng (rãi). Ông quan tâm tới Nguyễn Trãi, tới Nguyễn Đình Chiểu, tới văn hóa cố đô Huế. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một say mê của ông, ông nghiên cứu Hồ Chí Minh một cách trân trọng, sâu sắc, có các lý giải riêng. Với văn hoá Việt Nam, ông có các công trình như Bản sắc văn hoá Việt NamMột cách tiếp cận văn hoáThử xét văn hoá - văn học bằng ngôn ngữ họcCách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học... Bằng phong cách học, ông nghiên cứu Truyện Kiều để tìm ra cống hiến nghệ thuật thiên tài của Nguyễn Du “trước đó không ai làm được và sau đó khó có ai làm được”. Ông quan tâm tới cách chữa lỗi chính tả cho học sinh. Ông viết các công trình Cách lựa chọn của sáu nền văn hoá (Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp, La Mã, Đông Nam Á, Pháp), Đạo giáo ở Trung Quốc và ảnh hưởng ở Việt Nam. Cùng Phạm Đức Dương ông xuất bản cuốn Tiếp xúc ngôn ngữ Đông Nam Á, cùng Lê Ngọc Cầu ông viết Nội dung xã hội và mỹ học tuồng Đồ. Ông nghiên cứu và xuất bản Đỗ Phủ - nhà thơ dân đen và mới cho ra đời Thi thánh Đỗ Phủ và một nghìn bài thơ. Ông bàn chuyện dịch Đạo đức kinh và đã dịch, xuất bản cuốn Đạo đức kinh dễ hiểu. Ông còn dịch và xuất bản những công trình nghiên cứu lớn như Hình thái học của nghệ thuật (M. Kagan), Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc (B.L. Riftin)... Danh mục các công trình này tự chúng đã cho thấy học giả và dịch giả Phan Ngọc có một phạm vi khảo sát rất rộng rãi với một nền tảng lý thuyết và kiến văn mà tình huống phát triển của các khoa học ngày càng phân nhánh và chuyên sâu như ngày nay khiến người ta không dễ trang bị. Nên không ngẫu nhiên, từ ngày mở cửa, PGS Phan Ngọc đã được mời tới giảng dạy tại một số trường đại học ở Pháp, Niu Dilân, Hồng Kông và Singapore.   
Một lần tôi bày tỏ với ông nỗi thắc mắc: từ lai lịch thì có thể lý giải việc Thầy trau dồi tri thức về phương Đông ra sao, nhưng thật tình con không hiểu Thầy thâu nhận tri thức phương Tây vào lúc nào? Ông kể: thời kháng chiến chống Pháp, trên chiến khu Việt Bắc, GS Trần Đức Thảo và ông cùng ở trong một chiếc lán giữa rừng sâu, mỗi người một cái sạp tre. Trước khi đi ngủ, không dầu không đèn, hai anh em thường nằm dài chuyện vãn với nhau. Chuyện mãi cũng chán, một hôm GS Trần Đức Thảo bảo với Phan Ngọc: tớ nghe nói cậu biết nhiều về phương Đông, từ nay trở đi, trước khi đi ngủ cậu trình bày cho tớ nghe được không. Phan Ngọc trả lời, như thế thì phải “có đi có lại”, tối nay em nói về phương Đông, tối mai anh lại nói về phương Tây cho em nghe. Hai người nhất trí, và các bài giảng cho nhau nghe giữa GS Trần Đức Thảo và Phan Ngọc đã diễn ra trong bóng tối như vậy trong gần 2 năm trời. Nghe ông kể xong, tôi chỉ còn biết bày tỏ lòng kính trọng vì xem ra thời nay, điều kiện của chúng tôi hơn thời của các ông rất nhiều, nhưng ý chí thì lại kém các ông nhiều bậc!

Tính đến năm 2006 này, PGS Phan Ngọc tròn 81 tuổi và mỗi lần tới mừng thọ ông, tôi đều không muốn Thầy của mình già đi. Mà thực tế thì ông vẫn chưa già, vẫn nguyên vẹn nhiệt huyết và sự say sưa như gần 15 năm trước tôi đã biết. Sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, có lúc tưởng chừng sẽ gục ngã, vậy mà thầy Phan Ngọc của tôi vẫn trụ vững, và bằng nỗ lực không mệt mỏi, ông đã từng bước tự khẳng định mình với bản lĩnh của một trí thức lớn cả vệ trí tuệ và nhân cách. Cái gác xép bé tý xíu của Thầy tôi ở phố Bùi Thị Xuân ngày trước nay đã được thay thế bằng một “thư phòng” rộng rãi, sáng sủa, chất đầy sách vở trên tầng 6 của chung cư CT1A khu Mỹ Đình 2. Hàng ngày, ngoài giờ nghỉ ngơi, dự hội thảo, đi giảng bài hoặc gặp gỡ các nhà khoa học, PGS Phan Ngọc lại cặm cụi bên máy vi tính, và những dòng chữ như là kết quả từ các suy tư của một vị học giả lại hiện lên. Gặp những lúc như thế, tôi chỉ im lặng ngồi xa để nhìn, vì tôi không muốn làm gián đoạn luồng suy nghĩ của một con người mà tôi tin là nhà “bách khoa” cuối cùng của một thế hệ các nhà khoa học ở Việt Nam. Và tôi lại chờ đợi để được đọc những dòng ông viết!    
10.2006
Nguồn: VHNA

Saturday 21 September 2013

Phạm Quỳnh

Bài được blog Tìm hiểu từ nguyên đăng lại.

Về Phạm Quỳnh, có lẽ trách nhiệm chính thuộc về Tố Hữu.

Một số tư liệu quí hiếm về Phạm Quỳnh: Về ngày “Ủy ban khởi nghĩa Thuận Hóa mời Phạm Quỳnh ra làm việc” để rồi “đi không bao giờ trở lại” (Nguyễn Văn Khoan)

Blog PhamTon, tuần thứ 5 tháng 4 năm 2011

MỘT SỐ TƯ LIỆU QUÍ HIẾM VỀ THƯỢNG CHI – PHẠM QUỲNH ĐÃ ĐĂNG TRÊN BLOG PHAMTON HAI NĂM QUA

Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhân dịp Blog PhamTon chúng tôi tròn hai tuổi, theo yêu cầu của đông đảo bạn đọc yêu kính Thượng Chi Phạm Quỳnh chưa có dịp đọc blog từ những ngày đầu, chúng tôi xin đăng lại một số tư liệu quí hiếm, hầu như trước nay không ai được biết về Thượng Chi Phạm Quỳnh mà hai năm qua chúng tôi đã lần lượt đưa lên mạng. Chúng tôi đăng theo đúng nguyên bản đã phát trước đây.

VỀ NGÀY “ỦY BAN KHỞI NGHĨA THUẬN HÓA MỜI PHẠM QUỲNH RA LÀM VIỆC”

ĐỂ RỒI “ĐI KHÔNG BAO GIỜ TRỞ LẠI”

Đại tá, Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan
Lời dẫn của Phạm Tôn: Chúng tôi đã đăng bài Góp phần tìm hiểu và làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất Tất Nhiên” của Đại tá Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan, ký bút danh Sông Hương, và được đông đảo bạn đọc ở trong nước và cả ngoài nước nữa hoan nghênh, khen ngợi, truyền cho nhau đọc…

Kỳ này chúng tôi lại may mắn được Đại tá Tiến sĩ ưu ái gửi cho một bài mới, kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc, đúng phong cách của nhà sử học chân chính, nhưng vẫn với bút pháp rất độc đáo của ông, lật đi lật lại vấn đề nhiều lần, dưới nhiều góc nhìn khác nhau, thể hiện sự tin tưởng vào lương tri và trình độ hiểu biết của bạn đọc.

Xin mời các bạn cùng thưởng thức để có thêm những suy nghĩ mới về một vấn đề xảy ra cách nay đã hơn 60 năm.
*
*      *
Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, Phạm Quỳnh “ở nhà”, không tham gia chính phủ Trần Trọng Kim. Mặc dù chính phủ của ông Kim gồm phần lớn các bộ trưởng là những người yêu nước, ghét Pháp, cũng không ưa Nhật.
(…)
Theo lời Phạm Quỳnh, ông muốn “nghỉ việc”, để chăm lo vào đường văn học. Tổng khởi nghĩa diễn ra ở Huế, ông vẫn bình tĩnh. Con cháu tham gia biểu tình, ông chẳng những không ngăn cản mà còn khuyến khích, bảo người nhà mua và may cở đỏ sao vàng cho con cháu đi biểu tình. Có lẽ ông cho mình là một người yêu Tổ Quốc, theo cách của ông, đòi Pháp trả lại quyền cho vua Việt Nam, đấu tranh cho một nền quân chủ lập hiến hiện đại, v.v… Và cũng biết mình chưa nắm được tình hình diễn biến của thế sự, tin (cả tin) vào suy nghĩ của mình, không lường được những gì sẽ xảy ra, chủ quan không chủ động tìm hiểu thông tin để tự bảo vệ.[1]

Ngày 23 tháng 8 năm 1945, hai sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến – Huế là Đặng Văn Việt và Cao Pha[2] hạ cờ quẻ ly ở Kỳ đài Huế, kéo cờ đỏ sao vàng lên. Vào lúc 14 giờ, lá cờ rộng chừng 100 mét vuông ấy đã tung bay trên bờ sông Hương, trước núi Ngự Bình, trên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu.

Ngày 23 ấy, nhân dân Thừa Thiên-Huế đã tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.-

Cũng trong ngày 23, “Tôi (Phan Hàm sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến Huế-NVK chú) nhận lệnh, nghiên cứu thì được biết thêm là trong nhà Phạm Quỳnh cũng như nhà Ngô Đình Khôi đều có rất nhiều súng ống. Vì vậy buổi sáng hôm ấy, anh Hồ[3] và tôi phải cải trang đi trinh sát địa hình trước. Kết quả chỉ biết đích xác nhà (biệt thự Hoa Đường), sân, còn trong nhà không rõ. Đến trưa ông Phan Tử Lăng[4] trực tiếp chỉ thị cho tôi: đến trại Bảo An binh, ông ta sẽ phối thuộc cho hai tiểu đội lính Bảo An (một tiểu đội do tôi chỉ huy, một tiểu đội cho anh Việt chỉ huy) để giúp vào việc đi bắt hai tên Việt Gian đầu sỏ này. Ông ta còn nói thêm: “Bắt được rồi đem về lao Thừa Phủ, rồi báo xuống sân vận động Huế người ta biết, mở màn cuộc mít tinh.”

“Mệnh lệnh rất ngắn mà chúng tôi mang theo chỉ thấy nói “Ủy ban Khởi nghĩa Thuận Hóa mời Phạm Quỳnh ra làm việc”. Tôi được trang bị một khẩu súng lục St.Etienne 6.35. Khi xe của tôi vòng vào sân, thấy Nguyễn Tiến Lãng trong nhà chạy ra. Lúc bấy giờ trên áo tôi đã có cái băng cờ đỏ sao vàng nên Lãng biết, toan chạy. Tôi đưa súng lên bắn thì kẹt đạn, nên bắt lên xe luôn. Anh Hồ lên lầu bước vào phòng Quỳnh đang chuẩn bị nghỉ trưa. Đưa giấy “mời” ra, ông ta thản nhiên đứng dậy mặc áo ra đi.
Phần cuối tập tư liệu 10 trang do chính tay Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993 và Tuyên huấn Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế nhận chiều 14/11/1993. Có chữ ký trên tên do Thiếu tướng viết.

“Tôi lục soát khắp nhà (Chúng tôi nhấn mạnh-N.V.K) chẳng thấy súng đạn đâu cả ngoài khẩu súng săn cỡ 12 ly của con trai ông ta và ít đạn săn. Con trai của ông ta là Phạm Khuê cũng đi dự mít tinh, ở nhà chỉ còn hai cô con gái là học sinh trường Khải Định trước đây” (…) “Đây là ý kiến tôi muốn đóng góp với những bản tổng kết quân sự, Đảng, chính quyền của tỉnh nhà”.[5]

“Chúng tôi đưa những người bị bắt về lao Thừa Phủ, sau đó giao cho anh Nguyễn Trung Lập[6] đưa họ đi khỏi thành phố Huế để tránh sự dòm ngó của người ngoài[7].

Ngày 28 tháng 8, Pháp cho sáu tên nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Mười ngày sau (6 hoặc 7 tháng 9) lại có một toán người Pháp khác đổ bộ vào Thuận An. Bọn nhảy dù xuống Hiền Sĩ, vừa xuống mặt đất đã hỏi thăm người địa phương “Phạm Quỳnh ở đâu? (nguyên văn tiếng Pháp: Où est Pham Quynh?)”

Trong khi đó, cũng ngày 23 “sáng, Hồ Chí Minh (rời Tân Trào từ ngày 22 để về Hà Nội) đi qua huyện Đa Phúc, Phú Yên (nay là Sóc Sơn, Hà Nội). Chiều, người qua sông Hồng ở bến Phúc Xá. Tối người đến nghỉ trong nhà ông Công Ngọc Kha ở làng Gạ (Phú Gia, huyện Từ Liêm)[8]”. Ngày 24 người nghỉ tại đây. “Sáng ngày 25, tại làng Gạ, Người nghe các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Trần Đăng Ninh từ nội thành ra báo cáo8. “Chiều, người đi ô tô vào Hà Nội, dừng ở số nhà 35 phố Hàng Cân, lên gác tầng hai nhà số 48 phố Hàng Ngang”8. Ngày 26, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương Đảng. Ngày 27, Người họp với Ủy ban Dân tộc Giải phóng, “đề nghị thi hành chính sách đoàn kết rộng rãi, thành lập chính phủ thống nhất quốc gia bao gồm cả những đảng phái, những người có danh vọng”8

Ngày 28, Hồ Chí Minh đến làm việc tại nhà số 12 Ngô Quyền, dành thời gian soạn Tuyên ngôn độc lập. Được báo cáo là Trần Huy Liệu cùng phái đoàn đã vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại thoái vị, Bác nói với Hoàng Hữu Nam: “Chú tìm một người[9] thay chú vào Huế gặp Phạm Quỳnh đưa thư tôi mời cụ Phạm[10]

Trong đêm 23 tháng 8, chính phủ cách mạng lâm thời đã điện đòi Bảo Đại thoái vị. Chiều 30 tháng 8, Bảo Đại nộp ấn, kiếm cho phái đoàn chính phủ ta[11]

Trở lại ngày 27 tháng 8, khi họp Ủy ban Dân tộc Giải phóng tại Hà Nội, chưa  rõ là Chủ tịch Hồ Chí Minh có “đả động” gì đến Phạm Quỳnh không? Và Người có kịp căn dặn Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, Huy Cận vào Huế tìm hiểu hoặc đến thăm Phạm Quỳnh?

Ngày 28, Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ. Ngày 30, Trần Huy Liệu – nếu có tìm gặp Phạm Quỳnh cũng không được. Vì, có thể là những người lãnh đạo Ủy ban Khởi nghĩa cho biết là “có dấu hiệu Pháp liên lạc với Phạm Quỳnh” hoặc là Phạm Quỳnh bị bắt và đã giải đi xa rồi… Trần Huy Liệu chắc là có báo tin về Hà Nội, nên ngày 30 tháng 8 (ngày tiếp nhận thoái vị của Bảo Đại), Hoàng Hữu Nam đã thưa với Bác: “Ông Phạm Quỳnh đã bị bắt”[12] thì Bác đã nói ngay “Bất Tất Nhiên”.[13]

Ngày 31, Vũ Đình Huỳnh đưa các cô Phạm Thị Giá, Phạm Thị Thức đến gặp Hồ Chủ tịch, báo tin cha mình (Phạm Quỳnh) đã bị bắt.

Bảy ngày sau, tức mùng 6 hay 7 tháng 9 năm 1945[14], theo Phan Hàm, Võ Quang Hồ, sau khi Giải phóng quân Huế được thành lập vào ngày 1/9 thì có tin tàu Pháp xuất hiện ở cửa bể Thuận An[15]. Võ Quang Hồ cùng một số chiến sĩ có vũ khí đi thuyền áp mạn tàu Pháp, leo lên tàu Pháp đưa thư của ta cho chúng. “Xem xong thư, tên Pháp ôn tồn nói: Mời các ông lên bờ trước, tôi cho tàu nhổ neo sát vào bờ, rồi dùng ca nô lên bờ sau. Khi thuyền của Võ Quang Hồ, Đoàn Huyên15 cặp bờ thì tàu Pháp nhổ neo, giương buồm, hướng biển khơi mà chạy.[16] Có thể là “sau đó” Phạm Quỳnh bị bắn, nhưng bị bắn vào ngày nào?

Báo Quyết Thắng, cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung bộ, số 11 ra ngày 9/12/1945, cho biết: “Cả ba tên Việt Gian đại bợm (Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23/8 và đã bị Ủy ban Khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”[17].

Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế bấy giờ là Tố Hữu. Vậy, ông Phan Tử Lăng nhận lệnh đi bắt Phạm Quỳnh hẳn không phải là do ông Tôn Quang Phiệt Chủ tịch Ủy ban Nhân dân hay ông Hoàng Anh, phụ trách chính trị đại diện Đảng bố trí trong chính quyền, ra lệnh, mà phải là Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa.

Theo tư liệu nước ngoài, sau khi tàu chiến Pháp vào cửa Thuận An ngày 6 tháng 9, có lẽ Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa cho rằng “Pháp có thể tiếp tục tìm bắt liên lạc với Phạm Quỳnh (dù chỉ có một câu nói của nhóm nhảy dù “Phạm Quỳnh ở đâu?”. Cũng không rõ bọn Pháp hỏi để nhờ Phạm Quỳnh làm “phiên dịch” hoặc “tôn” Phạm Quỳnh lên làm chức gì đó?) nên họ xử lý ngay.
Sau khi Phạm Quỳnh “lên xe đi” (và “không bao giờ trở về nữa”), ông vẫn tin “Cách mạng sẽ cho về”. Và lúc nhận viên đạn trước khi rời bỏ cuộc đời, sự nghiệp còn dở dang, ông vẫn tự cho mình là không có tội với Nước, có chăng là chưa thuận theo thời đại, ông vẫn không tin rằng “Cách mạng, những người Cộng sản Việt Minh” lại xử bắn mình. Vì thế ông mới hét lên “Quân sát nhân!” (Quân giết người).

Theo Vũ Đình Huỳnh, khi ông Tôn Quang Phiệt ra Hà Nội gặp Bác và báo cáo “Cụ Phạm Quỳnh đã bị khử rồi” (nguyên văn). Bác nói: “Giết một học giả (chú ý: Bác không nói người mà nói học giả) như vậy thì nhân dân ta được gì? Cách mạng được lợi ích gì? Tôi đã từng gặp, từng giao tiếp với Cụ Phạm (chú ý: Bác dùng chữ Cụ) ở Pháp. Đó không phải là người xấu”[18]

Trở lại với thông báo của Việt Minh Trung Bộ, ta có thể đặt các câu hỏi sau đây:

a) Tại sao đã xử bắn “Kết án tử hình” từ ngày 6 (7) tháng 9 năm 1945, mà mãi đến ngày 9 tháng 12 mới ra “thông báo”?

b) Bản án đã “thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật”. Vậy “thời kỳ thiết quân luật” bắt đầu từ ngày nào đến ngày nào, trong phạm vi địa phương nào? Có được chính phủ cho phép?

c) Ủy ban Khởi nghĩa “kết án tử hình”. Vậy bản án ấy số bao nhiêu? Ai là quan tòa? (Hoặc do thời kỳ cách mạng, bão táp, v.v… và v.v…)

d) Thông báo viết: “Phạm Quỳnh còn dựa vào thế lực Pháp (…) bóc lột vơ vét tài sản quốc dân…”. Vậy, khi khám nhà Phạm Quỳnh đã thu được được bao nhiêu “tài sản”, vàng bạc, v.v…? Có mâu thuẫn gì không với ý kiến của thiếu tướng Phan Hàm: “Chẳng thấy dấu hiệu gì (chứng tỏ liên lạc với Pháp), cũng chẳng có tài sản gì…( ngoài khẩu súng săn)? Và nếu thu được “tài sản” liệu có thống kê không, danh mục ai thu, ai giữ, gửi ai, cơ quan nào bảo vệ?

đ) Tờ thông báo này là một công văn của “Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương, Thừa Thiên-Huế gửi Toà án Quân sự Thuận Hóa
Thông báo này có hai điểm cần xem xét:

1/ Cho đến ngày 9/12/1945, nghĩa là sau khi nước ta tuyên bố độc lập, có chính phủ rồi, hệ thống chính quyền ở các địa phương là Ủy ban Nhân dân kỳ, tỉnh, huyện…liệu có phải chỉ riêng ở Thừa Thiên-Huế vẫn tồn tại Ủy ban Khởi nghĩa?

2/ Tòa án quân sự Thuận Hóa – sự thật đã có hay chưa? Ai là chánh án?
Trong sách Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, 1993, trang 17 có viết: “Ngày 13 tháng 9, sắc lệnh số 33C quy định lập Tòa án Quân sự ở Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình), ở Trung Bộ (Vinh, Huế, Quảng Ngãi…) Tòa án Quân sự sẽ xử tất cả những ai có hành động phương hại đến nền độc lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa… Những quyết nghị của Tòa án Quân sự sẽ đem thi hành ngay (không có quyền chống án –NVK chú) trừ trường hợp tử hình (Chúng tôi nhấn mạnh – NVK), cần có thời gian cho tội nhân xin ân giảm (chỉ có Chủ tịch nước mới có quyền ân giảm – NVK chú) nếu họ muốn và phải được ghi vào bản án. Nếu không, bản án (tử hình – NVK chú) thành vô giá trị”.

Xử Phạm Quỳnh trước khi có sắc lệnh lập Tòa án Quân sự, “cũng phải” thôi! Sau khi có sắc lệnh lập Tòa án Quân sự ngày 13/9/1945 rồi, tại sao đến ngày 9 tháng 12 cùng năm, Ủy ban Khởi nghĩa mới báo cáo lên tòa án, một việc đã làm cách đó hơn ba tháng? Với mục đích gì? Nhằm giải quyết việc gì?

Phải chăng đây là một “tờ trình” cho hợp lệ, khi Ủy ban Khởi nghĩa có thể không còn, thời gian “thiết quân luật” đã qua, việc “kết án tử hình đã thi hành ngay rồi”. Cũng cần nói thêm là khó có thể tránh…Tuy nhiên, nước nhà đã độc lập, đã có chính phủ, chính quyền các cấp, người công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải được hưởng quyền công dân (tự do báo chí, hội họp…không bị xâm phạm thư từ, tài sản, càng không được xâm phạm tính mệnh). Nhưng những người lãnh đạo ở tỉnh Thừa Thiên – Huế, chịu trách nhiệm trước dân lại vô tình (hay hữu ý?) không biết (hay cậy quyền?) dựa vào uy tín của cách mạng, tự tiện quyết định mà không cần xin phép, không báo cáo…Họ chủ trương (có hay không?) làm một việc đã rồi. Khoan nói đến tầm nhìn hạn hẹp, ấu trĩ, mà cần xem xét sự việc này như là một “di căn” của “đấu tranh giai cấp” từ 1930 – 1931 còn sót lại, với “Trí-Phú-Địa-Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của những “nhà cách mạng yêu nước” tinh thần cao nhưng lại giáo điều, tả khuynh “hủ Mác”.[19]

Tạp chí Tri Tân số 205 ra ngày 7/9/1945 (suýt soát ngày 6 (7) Phạm Quỳnh bị thủ tiêu) đăng bàiCuộc hội đàm giữa Cụ Hồ Chủ tịch với ba đại biểu Liên đoàn Văn hóa (Trương Tửu, Thượng Sĩ, Nguyễn Đức Quỳnh- NVK chú).

Trong buổi gặp ấy, Cụ Hồ có nói: “Trong chính phủ lâm thời có cả vua, quan lại cũng có, địa chủ cũng có, nông dân cũng có, công nhân cũng có (chú ý: Bác không nói Việt Minh – Cộng sản – Dân chủ – Quốc Dân đảng – NVK chú)… Lúc này bất cứ người nào miễn là có tài và đừng phản cách mạng thì có thể phụng sự quốc gia, Tổ quốc”[20]

Chắc chắn là vẫn còn những nhân chứng, chi tiết, sự kiện mà lịch sử chưa tiếp cận được, chưa khai thác được, hoặc chưa tìm ra, chưa công bố được nhiều vụ việc – trong đó có “vụ Phạm Quỳnh.”

Chúng ta có thể tự an ủi rằng: Bác Hồ đã “gặp” Phạm Quỳnh rồi mà vẫn “lỡ”[21]. “Gặp” ở tinh thần yêu nước, muốn làm gì đó để nước thoát khỏi ách nô lệ, mỗi người theo cách riêng của mình, “gặp” ở tri thức, “gặp” ở sự cống hiến cho Tổ quốc. Còn “lỡ” là “lỡ” không kháng chiến, kiến quốc, “lỡ” để mất đi “một học giả”… khi chính Cụ Hồ, Tổ quốc đang rất cần những “học giả” như thế…

Không phải là “bới lông tìm vết”. Mà khoa học lịch sử là phải công bằng, rõ ràng công, tội: Công bao nhiêu, tội bao nhiêu?.

Không thể “mờ mờ nhân ảnh”, để thế hệ này và cả các thế hệ mai sau cũng “mờ mờ” theo[22]

N.V.K

[1] Xin nói rằng bộ phim Ngọn nến hoàng cung, dù là phim “tiểu thuyết lịch sử” (do đạo diễn tuyên bố) nhưng đã “sáng tác” ra  quá nhiều chi tiết, sự kiện phi lịch sử, sai lệnh về cách ứng xử, nhân cách của các nhân vật trong phim.
[2] Đặng Văn Việt, năm 2009 vẫn còn sống, ở tuổi 90, là “đệ tứ quốc lộ đại vương”, vua đường số 4 những năm 1949-1950; Cao Pha, thiếu tướng Cục Tình báo, đã mất.
[3] Võ Quang Hồ, thiếu tướng, 120/6 đường Lê Văn Thọ, Phường 11, Quận Gò Vấp, TpHCM. Điện thoại số: 3996-7419
[4] Phan Tử Lăng bỏ nghề dạy học để đi học Võ bị Tông, cùng khóa với Dương Văn Minh, tổng thống Việt Nam Cộng hòa sau này, được chính phủ Trần Trọng Kim giao “Tổng chỉ huy lực lượng vũ trang của chính phủ”, trực tiếp chỉ huy lực lượng Bảo An binh Trung Bộ, đồng thời là Hiệu trưởng trường Thanh niên Tiền tuyến.
[5] Tư liệu viết tay 10 trang, Thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 8/11/1993, Tuyên huấn Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế nhận chiều 14/11/1993
[6] Trung đoàn phó 84, Quân khu V, liệt sĩ 1950. Địa chỉ gia đình: nhà 50, đường 40, phường Thảo Điền, Quận 2, Tp HCM. Điện thoại:  3512-5778
[7] Theo bài thiếu tướng Phan Hàm viết ngày 15/8/1995, ông đã mất năm 2004. Địa chỉ gia đình: số 9 đường Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, Tp HCM. Điện thoại: 3844-7396
[8] Hồ Chí MinhBiên niên tiểu sử tập II, 1930-1945, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, các trang 283, 284, 285….
[9] Theo hồi ký Trần Huy Liệu: “Nhớ là ngày 25/8/1945, phái đoàn chính phủ lâm thời từ thủ đô Hà Nội ra đi bằng hai chiếc ô tô, có một tiểu đội Giải phóng quân đi theo bảo vệ. Trong khi ấy bọn Pháp đã bắt đầu nhảy dù xuống Huế, tên Pháp vừa nhảy xuống đã hỏi ngay Bảo Đại, Phạm Quỳnh. Ta đã xử lý thích đáng ngay nhiều tên tay sai của Pháp như Ngô Đình Khôi, Phạm Quỳnh” Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 18 (tháng 9 năm 1960).
[10] Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng gửi Nhạc sĩ Phạm Tuyên, 12/2008. Trong lúc đó, Phạm Quỳnh đã bị bắt mà Chủ tịch nước vẫn chưa biết (không được báo cáo). Bác viết thư chứ không đánh điện, có thể là một cử chỉ coi trọng người hiền tài.
[11] Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, chủ biên Nguyễn Khánh Toàn, Lịch sử Việt Nam tập II, NXB Khoa học Xã hội, 1985, trang 340)
[12] Nhà văn Sơn Tùng thuật lại theo ý kiến của Vũ Đình Huỳnh, Bí thư của Bác hồi đó.
[13] Có nghĩa là “Không cần thế, có thể có cách khác”.
[14] Theo gia đình Phạm Quỳnh thì ông mất vào ngày 6/9/1945.
[15] Sách Trường Thanh niên Tiền tuyến- Huế, trang 242. Đoàn Huyên, thiếu tướng đã mất năm 2004. Địa chỉ gia đình: 7 Đống Đa, phường 2, quận Tân Bình, TpHCM. Điện thoại số: 3844 6322
[16] Trong hồi ký này không thấy Pháp có hỏi han gì về Phạm Quỳnh
[17] Lưu tại thư viện Trung ương Hà Nội, ký hiệu T520, không rõ Ngô Đình Huân, con trai Ngô Đình Khôi, “Việt Gian đại bợm” thế nào? Thông tin về con người này còn quá ít
[18] Tư liệu của nhà văn Sơn Tùng gửi nhạc sĩ Phạm Tuyên, ghi theo lời kể của ông Đào Nhật Vinh và Vũ Đình Huỳnh. Qua chữ khử mà Tôn Quang Phiệt dùng dễ nhận ra là ông Tôn Quang Phiệt cũng không đồng ý việc xử lý Phạm Quỳnh và cả cách (phương pháp) tiến hành vụ xử. Và dù ông Phiệt không đồng ý cũng chẳng làm được gì.
[19] Trong Cách Mạng Tháng Tám, ở Trung Bộ, Nam Bộ từng xảy ra một số vụ “xử bắn”, “bắt giam” người trái phép rất đáng tiếc. Còn ở Bắc Bộ, nhiều quan Tổng đốc, Án sát… do “đoàn thể” quán triệt đường lối của Đảng nên đã may mắn được an toàn.
[20] Cuối năm 1945, sau khi Đảng ta tuyên bố tự giải tán, trong một lần trả lời các nhà báo, Bác nói: “Sau này tôi sẽ thành lập một đảng mới. Đảng ấy có tên gọi là Đảng Việt Nam. Chỉ có hai hạng người không được vào Đảng: phản quốc và tham ô”.
[21] Bài Đã gặp rồi mà vẫn lỡ đăng trên Nhà báo Huế, Xuân 2009.
[22] Một vị Tổng đốc Hà Đông, giàu tiền lắm ruộng, xây lăng to, không ít “thành tích”, chỉ viết có một cuốn sử mỏng, vậy mà cũng đã được công chúng ngày nay hoan nghênh. Tại sao đánh giá, xác định vai trò của Phạm Quỳnh – người có công lớn với văn hóa nước nhà, lại phức tạp, khó khăn đến thế? Liệu lịch sử còn công bằng không? Có thể còn kéo dài chế độ thi tốt nghiệp trung học phổ thông chưa hề có môn lịch sử?